Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 63, Chúa Nhật 23.03.2008


MỤC LỤC 

Mầu Nhiệm Giáo Hội                                     Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội - Lumen Gentium

Niềm Vui Lễ Lá                                                             Nhà Văn Xuân Vũ TRẦN ĐÌNH NGỌC

CẦU NGUYỆN                                                                                           Hoàng Thị Đáo Tiệp

Con tin có Chúa                                                                                          Phùng văn Phụng  

LƯƠNG TÂM CON NGƯỜI                                                             Lm. Giuse Hoàng Kim Đại

BẰNG HÀNH ĐỘNG KHÔNG BẰNG LỜI NÓI (3)                                      Lm. Lê Văn Quảng

MỘT THOÁNG SUY TƯ VỀ THIÊN CHỨC VÀ SỨ VỤ LINH MỤC          Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

THĂNG TIẾN CÁC MỐI QUAN HỆ GIA ĐÌNH QUA ĐÀM THOẠI                             Trần Hiếu

Một Nền Nô Lệ Mới, Các Trẻ Em Việt Nam Bị Bắt Hành Nghề Mãi Dâm   Lm. Martino Nguyễn Bá Thông

Cẩm Nang Chỉ Đường                                                Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy, pss.

Bệnh Lao-Kháng-Nhiều-Thuốc                                                Tiến sĩ Y Khoa Nguyễn Ý-Đức

CHẢ VÀ NEM,                                                                               Chuyện phiếm của Gã Siêu


Mầu Nhiệm Giáo Hội

Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II

 

Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội - Lumen Gentium

 

Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


 

Chương I

Mầu Nhiệm Giáo Hội (tiếp theo)

 

6. Hình ảnh diễn tả Giáo Hội. Trong Cựu Ước, việc mạc khải Nước Thiên Chúa thường được trình bày bằng hình bóng; cũng thế, ngày nay bản tính thâm sâu của Giáo Hội được diễn tả bằng nhiều hình ảnh lấy từ đời sống du mục, canh nông, kiến trúc, hoặc gia đình và hôn lễ. Sách các tiên tri đã phác họa những hình ảnh đó.

Thực thế, Giáo Hội là chuồng chiên mà Chúa Kitô là cửa vào duy nhất và cần thiết (x. Gio 10,1-10). Giáo Hội cũng là đàn chiên mà chính Thiên Chúa đã tiên báo Ngài là mục tử (x. Is 40,11; Ez 34,11 tt). Tuy được các mục tử phàm nhân chăn dắt, những chiên ấy luôn được chính Chúa Kitô, Mục Tử nhân lành và Thủ Lãnh các mục tử, dẫn dắt và nuôi dưỡng (x. Gio 10,11; 1P 5,4). Người đã hiến mạng sống mình vì đàn chiên (x. Gio 10,11-15).

Giáo Hội cũng là thửa ruộng hay cánh đồng Thiên Chúa (x. 1Cor 3,9). Trong cánh đồng ấy, mọc lên cây dầu cổ thụ mà các Tổ Phụ là gốc rễ thánh. Nơi cây cổ thụ này, sự hòa giải giữa dân Israel và các dân ngoại đã được và sẽ được thực hiện (x. Rm 11,13-26). Người trồng nho thiên quốc vun trồng Giáo Hội như một cây nho được tuyển chọn (x. Mt 21,33-43 song song; x. Is 5,1 tt). Chúa Kitô là cây nho đích thực. Người ban sức sống và hoa trái cho các nhánh là chúng ta. Nhờ Giáo Hội, chúng ta ở trong Người; và không có Người, chúng ta không thể làm gì được (x. Gio 15,1-5).

Giáo Hội cũng thường được gọi là tòa nhà của Thiên Chúa (x. 1Cor 3,9). Chúa Kitô đã tự ví Người như viên đá mà các thợ xây loại bỏ, nhưng đã trở thành viên đá góc (x. Mt 21,42 song song; CvTđ 4,11; 1P 2,7; Tv 117,22). Trên nền móng này, các Tông Ðồ đã xây dựng Giáo Hội (x. 1Cor 3,11), và Giáo Hội được bền vững, liên kết nhờ nền móng đó. Tòa nhà này còn được gọi bằng nhiều tên khác: Nhà Thiên Chúa (x. 1Tm 3,15), nơi gia đình Ngài cư ngụ. Nhà Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần (x. Eph 2,19-22), "Lều Tạm của Thiên Chúa giữa loài người" (Kh 21,3), và nhất là Ðền Thánh, tiêu biểu bằng các cung thánh bằng đá, đã từng được các Thánh Giáo Phụ ca tụng, và được Phụng Vụ sánh ví rất chính xác với Thành thánh, thành Giêrusalem mới 5. Thực vậy, trong Giáo Hội tại thế, chúng ta là những viên đá sống động dùng vào việc xây cất (x. 1P 2,5). Thánh Gioan đã chiêm ngưỡng Thành thánh ấy từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống trong ngày cải tạo vũ trụ, "sẵn sàng như hiên thê trang điểm để đón tân lang mình" (Kh 21,1tt).

Giáo Hội còn được gọi là "thành Giêrusalem trên trời" là "mẹ chúng ta" (Gal 4,26; x. Kh 12,17), được mô tả như hiền thê tinh tuyền của Con Chiên không tì ố (x. Kh 19,7; 21,2 và 9; 22,17) được Chúa Kitô yêu mến "và hiến thân để thánh hóa" (Eph 5,25-26), được Người kết hợp bằng một giao ước bất khả phân ly, được "nuôi dưỡng và săn sóc" không ngừng (Eph 5,29). Sau khi thanh tẩy hiền thê, Chúa Kitô muốn hiền thê ấy kết hợp và vâng phục mình trong tình yêu và trung tín (x. Eph 5,24). Sau cùng, Người vĩnh viễn ban cho dư tràn ơn thiêng trên trời để chúng ta hiểu thế nào là tình yêu Thiên Chúa và Chúa Kitô đối với chúng ta, tình yêu ấy vượt trên mọi hiểu biết (x. Eph 3,19). Bao lâu còn là lữ hành trên dương thế xa cách Chúa (x. 2Cor 5,6), Giáo Hội nhận mình bị lưu đày, nên luôn tìm kiếm và nếm hương vị trên trời, nơi Chúa Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa; nơi tiềm ẩn sự sống của Giáo Hội cùng Chúa Kitô trong Thiên Chúa, cho đến ngày xuất hiện với Phu Quân mình trong vinh quang (x. Col 3,1-4). 6*

7. Giáo Hội, thân thể Ðức Kitô. Khi Con Thiên Chúa chiến thắng sự chết bă�ng cái chết và phục sinh, trong nhân tính mà Người kết hợp, Người đã cứu chuộc và biến con người thành một tạo vật mới (x. Gal 6,15; 2Cor 5,17). Thực vậy, Người tạo lập cách mầu nhiệm các em Người, tụ họp từ muôn nước thành thân thê� Người, bằng cách thông truyền Thánh Thần cho họ.

Trong thân thể ấy, sự sống Chúa Kitô tràn lan trên các tín hữu. Nhờ các bí tích, các tín hữu được kết hợp thực sự và cách mầu nhiệm với Chúa Kitô đau khổ và vinh hiển 6. Quả thực, nhờ phép thánh tẩy chúng được nên giống Chúa Kitô: "Vì tất cả chúng ta được tẩy rửa trong một Chúa Thánh Thần để nên một thân thể" (1Cor 12,13). Nghi thức thánh thiện ấy diễn tả và thực hiện sự hiệp nhất với cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô: "Nhờ phép thánh tẩy, chúng ta được mai táng cùng Người trong cái chết"; và nếu "chúng ta liên kết với Người trong cuộc tử nạn thế nào thì cũng sẽ được sống lại với Người như vậy" (Rm 6,4-5). Khi bẻ bánh tạ ơn, chúng ta thực sự thông dự vào Thân Thể của Chúa nên chúng ta được nâng lên để hiệp thông với Người và với nhau. "Chúng ta tuy nhiều, nhưng là một tấm bánh, một thân thể, vì hết thảy chúng ta đồng thông hưởng cũng một tấm bánh" (1Cor 10,17). Thế nên tất cả chúng ta trở thành chi thể của Thân Thể ấy (x. 1Cor 12,27), "vì mỗi người là chi thể của nhau" (Rm 12,5).

Thật vậy, tất cả các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ tạo thành một thân thể; cũng thế, các tín hữu hợp thành một thân thể trong Chúa Kitô (x. 1Cor 12,12). Trong việc xây dựng thân thể Chúa Kitô, cần có nhiều chi thể với phận vụ khác nhau. Chỉ có một Chúa Thánh Thần ban những ân sủng khác nhau để làm ích cho Giáo Hội theo sự sung mãn của Ngài và tùy nhu cầu của công việc (x. 1Cor 12,1-11). Trong các ân sủng ấy, ơn ban cho các Tông Ðồ đứng hàng đầu: chính Chúa Thánh Thần đặt dưới quyền các ngài cả những người lãnh nhận những ơn đặc biệt (x. 1Cor 14). Cũng chính Thánh Thần ấy tự mình hợp nhất thân thể bằng thần lực Ngài và bằng sự liên kết tinh thần các chi thể lại với nhau; như thế Ngài làm phát sinh và thúc bách đức ái giữa các tín hữu. Vì thế, nếu một chi thể nào đau đớn thì tất cả các chi thể khác đều bị đau đớn; và nếu một chi thể nào được vinh dự thì tất cả các chi thể khác cùng chung vui (x. 1Cor 12,26).

Chúa Kitô là Ðầu của Thân Thể này. Chính Người là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, và trong Người mọi vật được tác thành. Người có trước mọi người và mọi sự được bền vững trong Người. Người là Ðầu của Thân Thể là Giáo Hội. Người là nguyên lý, là anh cả của những kẻ phải chết, hầu nắm quyền thủ lãnh mọi sự (x. Col 1,15-18), Người thống trị mọi vật trên trời dưới đất bằng thần lực lớn lao, và ban dư tràn sự vinh hiển phong phú của Người cho toàn thân thể nhờ sự toàn thiện và hoạt động siêu đẳng của Người (x. Eph 1,18-23) 7.

Mọi chi thể phải nên giống Chúa Kitô cho đến khi Người hình thành trong họ (x. Gal 4,19). Vì thế, chúng ta được kết nạp vào mầu nhiệm sự sống của Người, trở nên giống Người, cùng chết và sống lại với Người, cho đến khi cùng cai trị với Người (x. Ph 3,21; 2Tm 2,11; Eph 2,6; Col 2,12; v.v�). Ðang khi còn là lữ hành trên mặt đất, bước theo vết chân Người trong đau thương và bách hại, chúng ta cùng thông hiệp với những đau khổ của Người như thân thể kết hợp với đầu, hiệp với sự thương khó của Người để được cùng Người vinh hiển (x. Rm 8,17).

Trong Người, "toàn thân tìm được lương thực và sự liên kết nhờ các mối dây ràng buộc cấu kết với nhau, để lớn lên trong Thiên Chúa" (Col 2,19). Trong thân thể Người là Giáo Hội, Người luôn ban ơn huệ là các chức vụ, nhờ đó, với thần lực Người, chúng ta giúp nhau cứu rỗi, hầu khi thực hiện chân lý trong bác ái, chúng ta lớn lên về mọi phương diện trong Người, là Ðầu của chúng ta (x. Eph 4,11-16, bản Hy lạp).

Ðể chúng ta không ngừng canh tân trong Người (x. Eph 4,23), Người đã cho thông dự vào Thánh Thần Người, cũng một Ðấng duy nhất hiện hữu trên Ðầu cũng như trong các chi thể, làm sống động, liên kết và thúc giục toàn thân, đến nỗi các thánh Giáo Phụ đã ví nhiệm vụ của Chúa Thánh Thần với công việc mà nguyên lý sự sống, tức là linh hồn, hoàn thành trong thân xác 8.

Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội như hiền thê Người, Người trở thành gương mẫu của người chồng yêu vợ mình như yêu chính bản thân (x. Eph 5,25-28); phần Giáo Hội thì tùng phục Ðầu (n.v.t, 23-24); "Vì tất cả sự sung mãn về bản tính Thiên Chúa ở trong Người cách hữu hình" (Col 2,9), nên Người đổ tràn ơn thiêng trên Giáo Hội, là thân thể, là sự sung mãn của Người (x. Eph 1,22-23) để Giáo Hội cố gắng đạt tới sự viên mãn hoàn toàn của Thiên Chúa (x. Eph 3,19). 7*

8. Giáo Hội, thực tại hữu hình và thiêng liêng. 8* Chúa Kitô, Ðấng Trung Gian duy nhất, đã thiết lập Giáo Hội thánh thiện, một cộng đoàn đức tin, cậy và mến, như một toàn bộ cấu trúc hữu hình trên trần gian mà Người không ngừng bảo vệ 9. Qua Giáo Hội, Người đổ tràn chân lý và ân sủng cho mọi người. Giáo Hội là xã hội có tổ chức qui củ, và Nhiệm Thể Chúa Kitô, đoàn thể hữu hình và cộng đoàn thiêng liêng, Giáo Hội tại thế và Giáo Hội dư tràn của cải trên trời không được quan niệm như hai thực thể nhưng chỉ là một thực thể phức tạp, duy nhất, do yếu tố nhân loại và thần linh kết thành 10. Vì thế, nhờ loại suy xác thực, chúng ta có thể ví Giáo Hội với mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Thực vậy, nhân tính mà Ngôi Lời mặc lấy phục vụ Người như cơ quan cứu rỗi sống động và kết hợp với Người cách bất khả phân ly; cũng thế, toàn thể cơ cấu xã hội của Giáo Hội phục vụ Thánh Thần Chúa Kitô, Ðấng làm cho Giáo Hội sống động để tăng triển thân thể (x. Eph 4,16) 11.

Ðó là Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô mà trong Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng là duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền 12. Sau khi phục sinh, Ðấng cứu chuộc chúng ta đã trao phó cho Phêrô chăn dắt Giáo Hội đó (Gio 21,17); Người phó thác cho Phêrô cũng như cho các Tông Ðồ khác truyền bá, cai quản (x. Mt 28,18tt), và thiết lập Giáo Hội nên "rường cột và nền tảng chân lý" đến muôn đời (x. 1Tm 3,15). Như một xã hội được thiết lập qui củ trên trần gian, Giáo Hội ấy tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo, do Ðấng kế vị Phêrô và các giám mục hiệp thông với Ngài điều khiển 13, và mặc dù bên ngoài cơ cấu của Giáo Hội còn có nhiều yếu tố thánh hóa và chân lý, nhưng những yếu tố ấy là những ơn riêng của Giáo Hội Chúa Kitô, thúc bách đến sự hiệp nhất công giáo.

Như Chúa Kitô đã hoàn tất công trình cứu chuộc trong khó nghèo và bách hại, Giáo Hội cũng được mời gọi đi cùng đường lối ấy hầu thông ban ơn cứu rỗi cho loài người. Chúa Giêsu Kitô "vốn có hình thể Thiên Chúa... tự hủy mình, tự nhận thân phận tôi tớ" (Ph 2,6-7), và "vốn giàu có, Người đã hóa ra nghèo hèn" vì chúng ta (2Cor 8,9): cũng thế, tuy cần đến những phương tiện nhân loại để chu toàn sứ mệnh mình, Giáo Hội được thiết lập không phải để tìm kiếm vinh quang trần thế, nhưng để truyền bá khiêm nhường và từ bỏ, bằng gương lành của chính mình. Chúa Kitô được Chúa Cha phái đến "rao truyền Phúc Âm cho kẻ bần cùng... cứu chữa các tâm hồn đau khổ" (Lc 4,18), "tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư mất" (Lc 19,10). Cũng thế, Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những kẻ nghèo khó và đau khổ hình ảnh Ðấng Sáng Lập khó nghèo và khổ đau, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ. Nhưng Chúa Kitô "thánh thiện, vô tội, tinh tuyền" (Dth 7,26), không hề phạm tội (x. 2Cor 5,21), chỉ đến để đền tội lỗi dân chúng (x. Dth 2,17), còn Giáo Hội, vì ôm ấp những kẻ có tội trong lòng, nên vừa thánh thiện vừa phải luôn thanh tẩy mình. Do đó, Giáo Hội luôn thực hiện việc sám hối và canh tân.

"Lữ hành giữa cơn bách hại của thế gian và trong niềm an ủi của Thiên Chúa" 14, Giáo Hội rao truyền cái chết và thánh giá Chúa, cho đến khi Người trở lại (x. 1Cor 11,26). Giáo Hội vững mạnh nhờ thần lực của Chúa phục sinh, để toàn thắng các khó khăn và sầu muộn từ bên trong cũng như bên ngoài bằng yêu thương và kiên trì, và trung thành mạc khải cho thế gian mầu nhiệm của Chúa còn giấu trong bóng tối, cho đến khi được phô bày dưới ánh sáng vẹn toàn trong ngày sau hết.

 


Chú Thích:

(lưu ý: những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)

6* Số 6: Những hình ảnh về Giáo Hội theo Thánh Kinh.

Sau đây là những khẳng định của Công Ðồng:

a/ Những hình ảnh và hình bóng ấy là mạc khải thực về Giáo Hội nhờ đó chúng ta hiểu rõ hơn bản tính sâu xa của Giáo Hội. Hơn nữa chúng ta còn bầy tỏ sự thống nhất và tiến triển của một mạc khải được chuẩn bị trong Cựu Ước và được hoàn tất trong Tân Ước.

b/ Giáo thuyết đại cương trong số 5b được giải thích rõ rệt hơn theo tiến trình tiệm tiến và năng động. Những hình ảnh về đời sống du mục bày tỏ sự khởi xướng của Thiên Chúa trong Giáo Hội, luôn tiến triển để đạt tới kết quả sau cùng, những hình ảnh về xây cất chứng tỏ sự kiên cố, và những hình ảnh gia đình nói lên sự kết hợp thân mật giữa Chúa Kitô và Giáo Hội.

6 Xem T. Tôma, Summa Theol. III, q. 62, a.5, ad 1.

7 Xem Piô XII: Tđ. Mystici Corporis, 29-6-1943: AAS 35 (1943), trg 208.

8 Xem Leô XIII, Tđ. Divinum illud, 9-5-1897: AAS 29 (1896-97), trg 650. Piô XII Tđ. Mystici Corporis, n.v.t., trg 219-220; Dz 2288 (3808). T. Augustinô, Serm. 268, 2: PL 38, 1232, và nơi khác. T. Gioan Kim Khẩu, In Eph. bài giảng 9, 3: PG 62. 72. Didymô Alex., Trin, 2, 1: PG 39, 449t. T. Tôma, In Col. 1, 18, lect. 5: x.b. Marietti, II, số 46: Thân thể được tạo thành nên một do sự thống nhất của linh hồn, cũng thế Giáo Hội được tạo thành nên một do sự thống nhất của Thánh Thần..."

7* Số 7: Giáo Hội là thân thể Chúa Kitô.

Người ta có thể nhận thấy rằng, để khai triển ý niệm này, những bản văn của Phaolô đã được lập lại một cách phong phú, chứ không chỉ được sắp xếp theo thứ tự. Những nhà soạn thảo lưu tâm đến việc trưng dẫn cho "hòa hợp" hơn là đến việc khai triển cho hợp lý. Bởi vậy người ta đã đi theo tiến trình lịch sử của tư tưởng Phaolô: các đoạn a-c trích những thư lớn nhiều hơn; các đoạn khác trích các thư thời lưu đày. Nhưng cũng nên lưu ý Công Ðồng không muốn trực tiếp gọi Giáo Hội là "nhiệm thể", nhưng quả quyết rằng Chúa Kitô phục sinh đã tạo cho các anh em mình thành thân thể riêng mình, theo một cách thức bí nhiệm. Có hai lý do:

a) Thánh Phaolô không bao giờ nói về nhiệm thể. Ngài chỉ quả quyết là các tín hữu trở nên cùng một thân, một người, một thân thể của Chúa Kitô.

b) Ý kiến Thần học bất đồng về vấn đề này.

Ðây là tư tưởng chính yếu hướng dẫn tất cả tiến trình: ơn cứu rỗi biến cải con người thành một tạo vật mới. Chính Chúa Kitô là tạo vật mới ấy trong thân xác vinh hiển của Người, trong đó Người triệu tập và nối kết mọi anh em nhờ sức mạnh của Thần Khí Người (7a).

Ý tưởng ấy được khai triển trong hai chủ đề:

a) Chủ đề "thân xác": (7b-c): nhấn mạnh tới hai đặc điểm:

- Một cộng đoàn sinh hoạt thiêng liêng được bí tích nuôi dưỡng (7b).

- Sự khác biệt giữa các chi thể nhưng cùng "hiệp sức" trong sinh hoạt nhờ cùng một Thánh Thần khích động, vì lợi ích toàn thể (7c).

b) Chủ đề "Ðầu" (7d-g). Ðiều khẳng định chính yếu là sự trổi vượt của Chúa Kitô, Ðấng tạo thành và cứu chuộc, theo như đoạn đầu của các thư gửi tín hữu Ephêsô và Colosê, sự trổi vượt được Người trang bị cho toàn thân (7d).

Chúa Kitô là Nguyên Lý, là Thủ Lãnh Giáo Hội được trình bày dưới ba khía cạnh:

- sự hòa hợp các chi thể với Ðầu nhờ tham dự cuộc tử nạn và phục sinh của Người (7c).

- sự tăng triển của toàn thân hướng về Chúa Kitô là Ðầu: như vậy Chúa Kitô là Nguyên Lý hợp nhất và tăng triển có cơ cấu và có hòa hợp (7f).

- sự tăng triển này là công trình của Thánh Thần Chúa Kitô, luôn làm sống động, nối kết và hướng dẫn Giáo Hội (7g).

Vài hàng kết luận nói lên chủ đề Giáo Hội là một Hiền thê (7h).

8* Số 8: Bản tính nhân thần của Giáo Hội.

Trong Giáo Hội, phải phân biệt - nhưng không được phân tán - hai khía cạnh, có thể so sánh với hai bản tính của Ngôi Lời nhập thể: một khía cạnh nhân loại và một khía cạnh thần linh. Giáo Hội như một mầu nhiệm thực sự xuất hiện trên trái đất dưới hình thức cụ thể và hiển nhiên, và Giáo Hội vẫn hiện diện, nếu không chúng ta không thể nói tới mầu nhiệm (Giáo Hội là bí tích cứu rỗi, là dấu hiệu hữu hình của ơn cứu rỗi vô hình và là dụng cụ của quyền năng Thiên Chúa, xem số 1). Mầu nhiệm là chương trình cứu rỗi được Chúa mạc khải ở trần gian này dưới những tấm màn trong suốt (8a).

Vậy Giáo Hội được Thiên Chúa triệu tập và qui tụ, phù hợp với Chúa Kitô, là thân thể của Chúa Kitô và được Chúa Thánh Thần làm cho hoạt động. Tuy nhiên Giáo Hội vẫn là nơi qui tụ mọi người với tất cả những yếu tố mà nơi qui tụ đó bao gồm, không những về tổ chức, cơ cấu, thế lực xã hội, mà cả những yếu đuối và tội lỗi. Thực tế phức tạp của Giáo Hội là như thế, nhưng cũng đừng nên tách biệt hay đối kháng mà phải nhìn với con mắt đức tin như một công trình của lòng nhân hậu Chúa muốn xử dụng mọi yếu tố nhân loại, không khinh chê sự yếu hèn của nó. Sự thống nhất có tính cách nền tảng của Giáo Hội sống động được xác quyết qua ba cách thức khác nhau: không thể có sự đoạn giao giữa từng hai ý niệm đi với nhau:

"Xã hội phẩm trật - Nhiệm thể Chúa Kitô";

"Công hội hữu hình - Cộng đoàn thiêng liêng";

"Giáo Hội trần gian - Giáo Hội tô điểm bằng hồng ân thiên quốc".

Chúng ta đứng trước một thực tại phức tạp không chia cắt, nhưng lại bao gồm một yếu tố nhân loại và một yếu tố thần linh. Trong thực tại phức tạp này, Giáo Hội là dấu hiện có Chúa Thánh Thần hiện diện và chính Ngài sẽ hoàn tất trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội ơn cứu độ của những người được tuyển chọn.

Sự kiện vừa là dấu hiệu vừa là lý do sinh ra ơn thánh cấu tạo nên chính yếu tính của bí tích hay mầu nhiệm: dấu hiệu hữu hình của thần lực vô hình (8b).

Giáo Hội thánh thiện thật, nhưng một trật cũng luôn đòi được thanh tẩy; tội lỗi tồn tại trong Giáo Hội, nhưng Giáo Hội lại được Chúa Thánh Thần thánh hóa sâu xa. Do hai đặc tính này mà công cuộc cứu độ luôn được thực hiện dưới dấu chỉ khó nghèo và bách hại: đó chính là con đường mà Giáo Hội phải dấn thân để theo gương Chúa Giêsu; đường riêng của Chúa luôn là đường Thánh Giá. Giáo Hội là Giáo Hội của tội nhân nên luôn luôn cần được thanh tẩy. Nhưng nếu từ đó mà vội kết luận rằng Giáo Hội như thế không còn thánh thiện là kết luận sai, bởi vì như vậy là chỉ nhìn toàn bộ con số những chi thể chứ không nhìn đến một cái gì khác trong Giáo Hội. Giáo Hội là một xã hội do Chúa Kitô thiết lập và được Chúa Thánh Thần làm cho sống động chỉ với mục đích tranh đấu và chiến thắng tội lỗi. Ðó chính là lý do và là cách thức thánh thiện tinh tuyền của Giáo Hội: Chắc hẳn không phải nơi chi thể hay thủ lãnh, nhưng là trong chính yếu tính. Giáo Hội là Hiền thê không tì ố, không bụi nhơ, nhưng chỉ hiện hữu nơi trần gian này trong tình trạng chuẩn bị (8c).

Giáo Hội sẽ toàn thắng trên chặng đường nguy khó này, nhưng chỉ có thể nhờ sự bác ái và nhẫn nại của Thánh Thần mới có thể lướt thắng được những trở ngại dồn dập. Những yếu đuối, những khó khăn, những thiếu sót của Giáo Hội, của một xã hội trần gian, không phải là những ảo tưởng, nhưng chúng có thực. Cuộc chiến thắng của Giáo Hội Chúa trên tất cả những nghịch cảnh này cũng không phải là giả tưởng, nhưng là cuộc chiến thắng thực sự cho người có lòng tin. Như vậy, Giáo Hội thực sự mạc khải mầu nhiệm Chúa Kitô dù vẫn còn mây đen mờ tối cho tới khi có ánh sáng huy hoàng chiếu soi (8d).

9 Leô XIII, Tđ. Sapientiae christianae. 10-1-1890: AAS 22 (1889-90), trg 392. n.t., Tđ. Satis cognitum 29-6-1896: AAS 28 (1895-96), trg 710 và 724 tt. Piô XII, Tđ. Mystici Corporis, n.v.t., trg 199-200.

10 Xem Piô XII Tđ. Mystici Corporis, n.v.t., trg 221 tt. n.t., Tđ. Humani generis, 12-8-1950: AAS 42 (1950), trg 571.

11 Leô XIII, Tđ. Satis Cognitum, n.v.t., trg 713.

12 Xem Symbolum Apostolicum: Dz. 6-9 (10-13). Symb. Ni.-Const. : Dz. 86 (150). So sánh với Prof. fidei Trid. : Dz. 994 và 999 (1862 và 1868).

13 Ðọc "Giáo Hội Rôma thánh thiện (công giáo và tông truyền)": trong Prof. fidei Trid., n.v.t., và CÐ Vat I, Hiến chế tín lý về đức tin công giáo, Dei Filius : Dz. 1782 (3001).

14 T. Augustinô, De Civ. Dei, XVIII, 51, 2 : PL 41, 614.

 
VỀ MỤC LỤC

Niềm Vui Lễ Lá

 

Tôi đã thấy một rừng người chen chúc

Từ muôn nhà, giong, ngõ hẹp, túa ra

Họ hô vang:”Cứu Chúa của chúng ta

Trên lưng lừa, đang tiến vào thành thánh!”

      

Tôi cũng thấy đoàn người cầm  cành lá

Họ reo mừng, tâm trí rất hân hoan:

“Chúa chúng ta, hôm  nay đã khải hoàn

Chúa Cứu Thế -  Ngài, con vua Đa-vít!”

 

Ngài không cần  dù một người xà-ích!

Không cần quân gươm, giáo bảo vệ Ngài

Ngài tươi cười, chào hỏi, vẫy luôn tay

Rừng người đứng vui mừng, chào đón tiếp!

 

Ngài thổi vào lòng dân bầu nhiệt huyết!

Và Công bình, Bác Ái của đạo Ngài

Lấy Yêu thương mà đối xử đời này

Để  đời sau được Yêu thương cứu vớt!

      

Trên lưng lừa, cả  rừng người đón rước!

Cuộc khởi hành vào thành thánh hân hoan

Rồi ngày mai, những chén đắng tân toan

Ngài  sẽ  uống hoàn thành cuộc cứu độ!

 

Golgotha! Ngọn đồi thiêng là chỗ!

Ngài vâng theo thánh ý Đức Chúa Cha

Ngài phục sinh, Ngài sẽ khải hoàn ca!

Để nhân thế hòa ca lời Vĩnh Thắng!

Lễ Lá 2008

Nhà Văn Xuân Vũ TRẦN ĐÌNH NGỌC

       (Theo Mt  21:7-9)

VỀ MỤC LỤC
CẦU NGUYỆN

 

Buổi tối tôi đang lên mạng để đọc điện thư với gửi điện thư thì điện thoại reng. Nhấc máy và thốt tiếng "Hello", tôi nghe bên đầu dây giọng nói trẻ trung vui vẻ của một thiếu nữ khoảng tuổi đôi mươi hỏi mình:

- Cô ơi! Chắc cô muốn biết ai gọi cô đấy? Vâng, cháu xin giới thiệu: Cháu gọi cô bằng cô, tức cô là cô lớn chớ không như ông chú nọ gọi cô bằng cô mà mà cô em! Vậy cô biết cháu là ai chưa?

Tôi cười:

- Cám ơn cháu! Cô khen cháu có cách giới thiệu dễ yêu về mình mà cũng là an ủi cho tòa báo, cho người cầm bút. Cháu đã đọc Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ số tháng 7/2007 rồi?

- Vâng, cháu là bạn đọc Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ nhưng chỉ đọc ké báo của cô chủ tiệm cháu mua, chớ cháu không có mua. Không những cháu đọc báo số tháng 7/2007 rồi, mà luôn cả số tháng 8/2007 nữa. Đọc số tháng 7 thấy bài "Nếu Tôi Trẻ Lại" cháu đã muốn gọi cô, nhưng còn e ngại. Đọc thêm bài "Thuốc Độc" ở báo tháng 8 là cháu quyết phải gọi cô, chớ chẳng ngại chi nữa hết. Vì thấy cả hai bày nầy, cô viết giùm chuyện của người ta mà cháu rút được bài học nên cháu muốn nhờ cô viết giùm chuyện của cô chủ tiệm cháu. Bởi cháu học được bài học bổ ích lắm ở cô chủ tiệm "Nail" của cháu nên muốn "la làng" lên để nhiều người được học, kể cả cô luôn.

Được cháu mở lời tâm sự thế, tôi biết là câu chuyện sẽ thú vị với kéo dài. Tôi xin cháu chờ mấy phút cho mình đi tắt máy vi tính. Tắt xong, tôi trở lại bên điện thoại, cô phấn khởi nói tiếp:

- Cháu bảo đảm trăm phần trăm đây là chuyện của cô chủ tiệm cháu, cháu mới bạo gan ao ước cho nhiều người được biết để học, kể cả cô luôn. Vì cô chủ tiệm cháu đã có dâu có rể rồi, chớ cháu mới hai mươi bốn tuổi đâu làm gì có chuyện hay mà kể để cho ai học.

Coi đó! Thương cháu quá đi! Tôi nói thật lòng mình để cháu thêm phấn khởi:

- Cháu ạ! Không những chuyện của cô chủ cháu, chuyện của cháu, cô vẫn học. Cho nên cháu an tâm đi nhé, không phải rào đón hoặc lo ngại chi hết. Nầy! Cháu nghe cô nói đây! Cháu bảo cháu mới hai mươi bốn tuổi nên đâu làm gì có chuyện hay để cho ai học, nhưng cô đã nhìn thấy cái hay ở cháu. Đó là cái hay chịu học hỏi và muốn người khác cũng được học hỏi. Nói chung là cái hay của sự khiêm nhường và lòng yêu thương nên đáng quý lắm đấy, cháu ạ. Ngoài ra cô nhắc để cháu nhớ: Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu lìa đời lúc mới hai mươi bốn tuổi. Ngài đã được phong Thánh và được tôn vinh là tiến sĩ của Giáo Hội Chúa vì đã khai sáng nên "Con đường thơ ấu thiêng liêng" để tu đức cũng như để đối nhân xử thế.

Tôi nói thế, đúng là cô thêm phấn khởi, giọng cô reo vui:

- Ơi! Thật vậy sao cô? Vậy mà cháu đâu có biết! Thương cô ghê nhen!

Tôi cũng cười vui:

- "Thương" mà đến "ghê" thì cô rầu lắm đó!

- Thì đấy! Cô vừa mới bảo: Cô học ở cháu!

Đến nước nầy tôi chỉ còn biết cười huề với cháu thôi! Cháu nói tiếp:

- Nói thật với cô, cháu là đứa "bán trời không văn tự" mà cháu tâm phục, khẩu phục cô chủ tiệm "Nail" của cháu thì cô đủ hiểu cô ấy hay đến chừng nào! Lại tiệm của người ta không thầy thợ ra vô cũng giành ăn! Nên "Cãi nhau như mổ bò" là chuyện cơm bữa, chuyện nhỏ! Còn bôi bác nói xấu làm hại thanh danh nhau, hay tố giác, đánh đấm, phá xe, tráo hóa chất... hại nhau chỉ vì "Miếng ăn là miếng tồi tàn. Mất đi một miếng thì lộn cái gan lên đầu" quả đáng tởm và tủi hỗ lắm, mà vẫn cứ xảy ra luôn! Trong khi tiệm cô chủ cháu trên thuận dưới hòa, sóng yên biển lặng, trong ấm ngoài êm...

- Cho cô hỏi nhé! Cháu làm ở tiệm cô chủ nầy được bao lâu rồi?

Tôi ngắt lời cô để hỏi thế. Cô cho biết:

- Bốn tháng rồi cô ạ! Mà lương cũng không nhiều, kém hơn mấy chỗ cháu làm trước đó nữa, nhưng cháu lại thích ở làm. Cô ơi, nếu cô biết rằng cháu có bằng hành nghề "Nail" mới được hai mươi lăm tháng mà đã nhảy tới hai mươi ba tiệm, nhưng lại ở làm tiệm nầy tới bốn tháng là đủ biết cháu chịu cô chủ nầy dữ lắm! Cho nên cô mà chịu học cách của cô chủ tiệm cháu thì cháu tin chắc ngoài việc tạo an vui cho tiệm cô, cô còn thu phục được nhân tâm nữa!

Tấm lòng và thiện chí của cháu, tôi hiểu. Tuy nhiên tôi thấy phải nêu ý của mình.

- Vấn đề thu phục nhân tâm cũng tùy thôi cháu ạ! Đấy, tỷ như cháu tự nhận biết mình "bán trời không văn tự" tức mình tội lỗi, ngang ngược, khốn nạn... chớ chẳng ra làm sao hết! Cháu có cái tinh thần tự phê và khiêm hạ thế, nên mới chịu đầu phục, chịu học hỏi khiến cô chủ cháu được thành công trong việc thu phục cháu. Những người khác nhất là thợ "Nail" và thợ "Hair" sẽ không dễ đâu! Vì nếu như họ đã không có cái tinh thần như cháu, còn nặng thói quen đổ lỗi với chê trách... Ngoài ra ông bà mình đã có dạy kiếp con người ta là luôn phải: "Ba chìm bảy nổi chín lênh đênh". Đấy, nhìn vào gia đình "Thánh Gia" thì đủ rõ. Từ Thánh Giuse đến Đức Mẹ, rồi Chúa Giêsu hầu như cứ long đong với hoạn nạn luôn! Cho nên tại cháu mới đến làm ở tiệm cô chủ cháu có bốn tháng thôi, mới thấy là tiệm ấy an vui; chớ nếu cháu làm ở đấy lâu hơn thì đã có thể xảy chuyện. Thế gian mà cháu, mọi sự an vui đều là tạm bợ. Hôm nay thấy yên ổn đấy, hôm khác sẽ có xảy chuyện.

- Thì vẫn có xảy chuyện luôn đấy chứ! Nhưng lại đâu vào đó. Tắt một điều là: an vui. Đây nhé, để cháu kể cô nghe. Cháu...

- Khoan kể! Cháu ơi cô sốt ruột muốn biết cái cách chi của cô chủ tiệm cháu! Nãy giờ cháu đâu đã nói!

Lại một lần nữa tôi ngắt lời cô và đề nghị thế. Vẫn giọng vui tươi và mau mắn, cô nói:

- Thì để cháu kể cô nghe rồi cô sẽ kết luận đấy là cách chi. Sau đó xin cô đặt cho cái tựa bài với chọn số báo nào thích hợp để đăng vì nguyện vọng cháu chỉ có như thế! Cháu đâu được hiểu biết như ông chú nọ mà đặt cái tựa bài hay cái tên cho cái cách! Cô làm ơn đồng ý giùm! Đừng có cắt ngang lời cháu, hỏi khó cháu tội nghiệp! Cháu đã nói cháu là đứa "bán trời không văn tự" nhưng cháu chịu học ở cô chủ nầy thì cô phải biết cái cách của cô ấy tuyệt hay!

- Vâng! Cháu nói thế thì cô chiều ý cháu! Xin cháu hãy kể, cô nghe. Có thắc mắc thế nào cô cũng ráng "nhịn", không ngắt ý cháu để hỏi han chi hết!

Tôi đáp vậy, tiếng cô cười vui bên đầy dây và cô bắt đầu kể...

... Cháu lớn lên ở đồng ruộng, mà nơi khỉ ho cò gáy "hóc bà tó" quê mùa lắm! Ban ngày hầu như mọi người đều đi chân đất, tối tới thì đập đập hai chân vào nhau để lên giường ngủ. Đánh răng thì đánh bằng nước lã hay nước muối. Muốn "diện" cho răng trắng thì đánh bằng sơ cao tức bằng vỏ của trái cao để ăn trầu, muốn tóc bóng đẹp thì xức dầu dừa... Mấy cô gái dậy thì được "nổi ngực" đều phải lo "nịch" cho xẹp xuống, kẻo mấy bà già trầu trong làng trong xóm mắng là "con đĩ thúi để cái vú tưng tưng mà đi..."

Tôi nhìn đồng hồ thấy gần 11 giờ đêm, lại nghe cô kể mà... hởi ôi! Chuyện tít mù đâu của quê làng cô, nào phải chuyện của cô chủ tiệm cô! Trong khi cô bảo cô sẽ kể về cái cách chi đó thật hay của cô chủ nên tôi cũng sốt ruột được biết... Nhưng thôi, mở miệng sợ cô... rầy! Với lại tôi cũng đã trót hứa... nên tự khuyên mình hãy nhẫn nại nghe cô kể! Vì có thể cô thấy phải cần "giở trang sử" của đời cô là đứa "bán trời không văn tự" nhưng đã được cô chủ cảm hóa...

Bên đầu dây, cô vẫn giọng vui tươi phấn khởi kể thao thao... 

... Trong cái làng "hóc bà tó" quê mùa đó của cháu, có một chị nọ được người quen giới thiệu cho lên thành phố ở đợ. Mỗi lần chị về thăm nhà, ăn mặc bảnh bao, chân đi dép thấy ham ghê! Rồi chị ấy được lấy chồng ở trên thành phố và sắp đẻ con nên má chị muốn kiếm đứa ở cho chị. Lúc đó cháu được mười bốn tuổi và má chị chọn cháu, cháu mừng ghê, nhưng ba má cháu không vui. Ba má muốn cháu ở nhà để năm cháu mười sáu tuổi sẽ gả cho anh nọ trong làng, vì hai gia đình đã nghoéo tay thề hứa sao đó từ lúc bọn cháu chưa chào đời. Cháu đâu có cảm tình với anh đó mà lấy! Hơn nữa cháu muốn thoát cái đời chân lấm tay bùn ở nhà quê, quyết phải ra thành phố nên xem đây là dịp. Cuối cùng ba má cháu chịu cho cháu đi... Chị ấy nằm đẻ, cháu thì lo các việc trong nhà từ giặt quần áo, lau dọn, nấu ăn... Nói thật cô thương, thấy anh chồng chị ấy có vẻ muốn muốn cháu, cháu đặt điều kiện thẳng với ảnh là nếu không chê cháu nhỏ thì cháu cho, nhưng phải cho tiền cháu để cháu uốn mái tóc quăn dợn sóng, với mua đôi giày và sắm ba bộ đồ mới. Anh ấy chịu và cháu cho ảnh. Cho một lần rồi hai lần và đến bao nhiêu lần cháu cũng không nhớ. Cho tới đúng một năm sau thì chị ấy bắt gặp, vưa đuổi cháu đi vừa bắn tin về quê, làm ba má cháu xấu hổ từ cháu, cấm cháu không được về làng. Đương nhiên cháu đâu có thích chui rúc về dưới làng quê để sống mà cấm. Một năm ở thành phố đủ cho cháu quen nhiều người trong khu phố, trong chợ... nên họ giới thiệu cháu đi ở những chỗ khác, để coi ông già bà lão. Và coi bà lão thì cháu cho con trai bà chơi cháu, còn ông lão thì cháu cho ông sờ soạng cháu để cho cháu tiền vì cháu muốn có tiền sắm nữ trang, áo quần, các thứ "diện" bằng thích. Bởi cháu thấy mình đâu có bị mất mát gì còn được lợi. Cháu đâu đã có kinh nguyệt nên đâu phải sợ chi chuyện bầu bì. Nhưng, đến khi cháu được mười sáu tuổi thì cháu có và bị dính bầu. Cháu vô bệnh viện sản xin phá thai thì gặp một bà hiền lành lắm, khuyên cháu đừng phá, hãy về ở với bà để bà lo cho. Cháu về với bà mới biết bà là bà sơ! Bà sơ với nhóm thiện nguyện của bà cũng đang giúp cho mươi chị em bạn gái nữa, bị dính bầu như cháu. Có người đẻ xong thì ở lại giúp bà sơ, coi đám trẻ. Cháu đẻ được đứa con gái thì bỏ nó đấy, trốn đi. Nữ trang cháu có, cháu bán một ít để đi học nghề làm tay chân nước, rồi sắm đồ nghề và xin vào làm trong một tiệm tóc. Tại đây cháu quen được anh Việt kiều lớn gấp đôi tuổi cháu. Anh ấy thật lòng yêu cháu và đưa cháu qua Mỹ đã bốn năm nay. Hiện chúng cháu có một bé trai cũng đã bốn tuổi vì đến Mỹ chỉ vài tháng thì cháu sinh bé...

Nghe đến đây tôi... thở phào! Thì ra trang sử đời cô tự nhận mình "bán trời không văn tự" ở những ngày trẻ dại coi như tạm kết thúc mà kết thúc... vui. Tôi phấn khởi nghe cô vẫn đang kể thao thao...

... Tiếng Anh cháu nói không giỏi nhưng cháu làm "Nail" giỏi nên muốn mình phải "hốt" được nhiều tiền. Mà tức ghê! Cháu đi tiệm "Nail" nào cũng bị thợ cũ đì với bị chủ đì vì coi thường cháu đã dở tiếng Anh lại tay nghề mới! Nói thật cô thương, đời cháu là cuộc đời vô đạo vì quê cháu Chùa còn chưa có nói chi có Nhà Thờ! Gặp bà sơ cứu vớt đời mình thoát cảnh phá thai giết chết đứa con nhưng cháu lúc ấy vẫn chưa biết thương con mình đâu, mà cảm tình với đạo Chúa thì lại lai láng ở cháu, qua hình ảnh dịu hiền, tốt bụng của bà sơ. Vậy mà lăn lộn vô nghề "Nail" gặp từ chủ đến thợ "Nail" có đạo Chúa nhưng họ giành ăn, gian dối, tham lam còn hơn người vô đạo là cháu, khiến cháu hầu như không còn chút cảm tình nào với đạo Chúa! Cái hôm cháu gọi đến cô chủ nầy để xin việc, cháu đã lo hỏi trước tiên là cô ấy có đạo Chúa không? Cô ấy bảo có, cháu đã toan tính rút lui. Mà thấy cô ấy hứa bao lương, đồng lương cũng tương đối nên cháu mới tới làm. Định sẽ làm tạm để kiếm được chỗ khác là đi. Không ngờ ngày đầu tiên đến, cháu thấy cô ấy sao quá hiền lành! Khách cứ để cho ba người thợ làm và như cô bị ba người thợ này ăn hiếp! Vì khách vô dư, cứ thấy ba người thợ đẩy khách đi! Trong khi bao lương cho cháu lẽ ra cô phải giữ khách lại đưa cháu làm để cô không bị lỗ. Thú thật cháu vừa xót vừa tức anh ách trước cảnh ba người thợ kết với nhau đẩy khách đi mà cô chủ thản nhiên chẳng nói chi, còn rũ cháu vô phòng đóng cửa lại; lần chuỗi đọc kinh. Cháu không biết lần chuỗi đọc kinh và hoàn toàn đâu có muốn. Nhưng, thương cô chủ, cháu đành phải theo vô phòng với hơn nữa cũng lo bị đuổi vì cô bao lương cháu... Cô ấy cũng không đòi hỏi cháu phải đọc kinh, lần chuỗi mà chỉ nói là cần được cháu ngồi đó, để cùng hiệp ý với cô thì điều cô cầu xin dễ được Chúa nhận lời. Cháu không hỏi cô cầu xin điều chi chỉ biết là cô cầu xin cách say đắm lắm! Thấy vậy cháu lại tự ý xin cho cháu có khách làm để cô đừng bị lỗ vì bao lương cháu, và cũng xin cho có khách để cô làm. Chỉ sau hai mươi phút thì xong và rồi mừng ghê cả cháu và cô chủ đều có khách làm lai rai suốt! Hôm sau, rồi luôn hôm sau nữa, cứ thế mỗi ngày cháu theo cô vào phòng đóng cửa lại, ngồi yên trong ấy khoảng hai mươi phút với cô, để nhìn cô lần chuỗi, nghe cô đọc kinh mà đọc cách đắm say, rồi cô thinh lặng xin chi không biết; nhưng cháu thì xin cho cả cô với cháu đều có khách làm. Mà đúng, khách sau đó cứ vô cho cả hai cô cháu được làm vì ba người kia đã có khách của họ. Theo được mười hôm thì kinh nào cô chủ đọc, cháu cũng đều thuộc nên cháu đọc theo. Rồi cô cho cháu xâu chuỗi, cháu cũng biết cách lần chuỗi. Đến ngày thứ mười lăm thì cô chủ hoan hỷ cám ơn cháu, bảo rằng:

- Cháu thấy đó! Bây giờ cháu sung sướng được ở đây làm với cô rồi phải không? Nhớ hôm cháu vô, cô biết cháu có ít nhiều bất mãn và cũng biết tâm lý ba người thợ của mình thấy thợ mới vô thì sợ bị mất phần dù rằng làm không hết khách! Thêm nữa tiệm lúc ấy cũng đang có vấn đề vì anh thợ đàn ông duy nhất đó, vợ anh ta mới bị mổ cắt bỏ tử cung hãy nằm bệnh ở nhà mà anh ta lại xoay qua tán tỉnh cô thợ trong tiệm vốn đã bị chồng bỏ lâu năm. Rồi thấy cả hai anh chị có tình ý với nhau nên cô lo anh ta sẽ làm cái chuyện lỗi đạo! Cho anh ta nghỉ việc thì quá dễ. Nhưng, làm sao để cả hai người cùng thấy được vấn đề lỗi đạo để đừng tiếp tục tìm đến với nhau mới là nên... Cô cũng vốn biết chỉ có Chúa mới thay đổi được lòng người và vững tin ở lời Chúa dạy: "Nơi nào có hai người hợp lại vì danh Chúa để cầu xin là được Chúa nhận lời". Cô mới đăng báo cần thợ. Chuyện lỗ lả vì phải bao lương thợ, cô không lo vì tín thác đã có Chúa lo, mà cô muốn có người để cùng hiệp ý cầu xin... Nay thì thấy cô thợ không còn tình ý với anh thợ nữa, vì cô mới được quen với một anh chàng đã chết vợ và đạt yêu cầu của cô hơn. Rồi nhờ hai người không kết với nhau nữa, nên khách vô không đẩy đi để dành cho nhau, mà đưa cho cháu làm. Và cô thợ kia cũng thế, đưa khách cháu làm chớ chẳng đẩy đi...

Cô kết luận:

- Đấy, cái cách của cô chủ cháu là như vậy đó! Nếu cô viết, xin cô đặt tên xem cái tựa bài là gì. Cũng xin thú thật với cô, lúc đó cháu cũng có ý định bỏ quách ông xã cháu cho rồi. Vì qua đây mới biết ảnh nghèo rớt, nghề ngỏng chẳng ra làm sao! Thế nhưng bây giờ cháu thấy thương ảnh nhiều với biết ơn ảnh nữa! Cháu sẽ không bao giờ phụ tình ảnh. Cũng như cháu đã biết nghĩ lại, thương con gái cháu và nhất định sẽ tìm dịp đón nó qua với đền ơn bà sơ...

Tôi cho cháu biết sẽ đặt tên bài viết là CẦU NGUYỆN. Bởi cách đấy, đạo Chúa gọi là CẦU NGUYỆN. Có nhiều hình thức CẦU NGUYỆN mà hình thức thường thấy là đọc kinh với lần chuỗi Mân Côi. Bài viết sẽ đăng vào báo Mẹ số tháng 9-10 và được hợp với chủ đề của số báo nữa: Tháng Mân Côi Đức Mẹ. Đức Mẹ luôn thiết tha mời gọi mọi người cầu nguyện. Cầu nguyện bằng trái tim.

Tôi cũng hỏi cháu đã xin ý cô chủ chưa và cô ấy có ngại gì không? Cháu cho biết chính cô chủ đã mất bao nhiêu là thời gian gọi lòng vòng xin cho được số điện thoại tôi, để đưa cho cháu... 

***** 

Kính thưa quý bạn đọc nhất là những bạn đọc đang điều hành cơ sở thương mại dù lớn, dù nhỏ. Tôi xin làm chứng cho việc ở chỗ làm ăn mà có ít lắm hai người cùng họp lại CẦU NGUYỆN vài mươi phút mỗi ngày. Tiệm tôi đấy, từ vài tháng nay được cô bạn làm mới, cứ ngày ngày rủ tôi cùng cầu nguyện khoảng vài mươi phút. Ôi! Ơn Chúa, Mẹ, Thánh Cả thương ban, thầy thợ chúng tôi sống với nhau an bình, vui vẻ thay!

Hoàng Thị Đáo Tiệp

VỀ MỤC LỤC
Con tin có Chúa.   

                                     

Con gái tôi vừa mở tiệm nails đã gọi tôi và nói: 

“Chúa nhật này ba có rảnh không?” 

Tôi hỏi: “ Mấy giờ?” 

Con tôi nói: “ Buổi trưa một giờ được không?” 

Tôi nói: “ Khoảng một giờ rưởi, hai giờ ba tới vì ba có buổi họp mặt của nhóm Thân Hữu Cần Giuộc và Cần Đước mỗi chúa nhật đầu tháng.”

Con tôi nói: “ Ba nghỉ một chúa nhật không được sao?” 

Suy nghĩ một chút, tôi nói ngay: “ Thôi để má con lo phần hụi của nhóm, ba sẽ đến chỗ khui hụi một chút rồi xuống tiệm con luôn.

Đến nơi, con gái tôi mở cửa để cho tôi là người đầu tiên bước vào tiệm vì cho rằng tôi mang đến sự may mắn. Thấy có con heo quay và nhang đèn cùng hai bức tượng nho nhỏ cở ngón tay cái bằng gang, mua ở chợ Hồng Kông, một dĩa trái cây. Con tôi đốt nhang, vái vài cái rồi cắm lên dĩa trái cây. 

Con tôi tin rằng tôi đến đầu tiên sẽ mang đến may mắn, tiệm sẽ đông khách. Tôi suy nghĩ: “ Ba tin rằng ba đem tình yêu thương của Thiên Chúa toàn năng đến cho con bằng lời cầu nguyện. Nếu ba đem đến được cho con sự may mắn thì may mắn đó cũng từ Thiên Chúa mà ra. Chúa chẳng những mang đến cho con may mắn, mà còn mang đến cho con bình an hiện tại và hạnh phúc vĩnh cữu mai sau.”

Gia đình con tôi là gia đình công giáo. Hai cháu ngoại một gái, một trai đều đã được rửa tội. Nhưng khi mở tiệm lại tin vào đấng vô hình khác là thần tài tức là không hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa toàn năng.

Thiên Chúa ở giữa chúng ta hôm nay.

Sau khi rửa tội vinh dự cao cả nhất của người KiTô hữu là được làm con Thiên Chúa. Chúng ta được quyền gọi Thiên Chúa là Cha “Áp-ba, Cha ơi”. Cho nên chúng ta chỉ tin, cậy, mến vào một đấng toàn năng duy nhất là Thiên Chúa mà thôi.Tất cả các thần khác đều dưới quyền năng của chúng ta là con cái của Thiên Chúa, cho nên ta không phải vái lạy bất cứ thần nào khác cả.

Vai trò của người Kitô hữu còn là ngôn sứ đem Tin mừng của đấng Cứu Thế cho khắp muôn dân, để làm phép rửa cho họ Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được. (Ga15, 5). Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý (Ga15,7).

Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho (Lc11,9). Ai trong anh em là một người cha mà khi con xin cá, thì thay vì lấy cá lại lấy rắn mà cho nó? Vậy anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao (Lc11,11-13).

Tuần rồi, dự “Khóa Khơi nguồn Đặc sủng Thánh Linh Công Giáo” bốn buổi tối do linh mục Đinh Thanh Sơn hướng dẫn, tại Giáo Xứ Đức Kitô Ngôi Lời Nhập thể, tôi  đã cảm nghiệm rằng Chúa Giêsu đang sống và hiện diện ở giữa chúng ta (1) vì Chúa Giêsu đã chữa lành phần tâm linh cũng như chữa lành phần thể xác của chúng ta ngày hôm nay.Trong buổi cầu nguyện, bà xã tôi không phải là người công giáo, đã cầu nguyện cho tôi hết đau nhức bên cánh tay phải của tôi bằng cách tay trái để trước ngực, tay phải để trên vai tôi kêu gọi danh Chúa Giê su mà cầu nguyện chữa lành. Và Chúa đã chữa lành cho tôi hết đau nhức tay phải ngay lúc đó. Nhiều người cũng đã hết các bịnh tật của họ và đứng lên để làm chứng là họ được chữa lành.

Tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh.

Sau ngày 30 tháng tư năm 1975, tất cả những người ưu tú của miền Nam đều đi tù. Những người có trình độ trung học trở lên hầu hết đều ở trong trại giam vì nếu không làm chức vụ kha khá trong chế độ cũ thì cũng đi lính cấp bậc thiếu úy trở lên. Trong thời gian bị giam giữ ở Long Thành, Thủ Đức, tôi quen anh Minh chủ nhà in ở quận 5, thường than thở, suy nghĩ, làm thế nào lấy số tiền 40 triệu trong ngân hàng (số tiền này rất lớn vì công chức hạng A, có bằng Đại học lảnh lương khoảng 30, 40 ngàn đồng một tháng). Rồi anh làm đơn gởi cho Ủy Ban Quân Quản thành phố, làm kế hoạch nuôi heo để xin rút số tiền 40 triệu đó. Buồn rầu vì mất tiền của, buồn rầu vì lo lắng con cái ở nhà không ai chăm sóc. Từ chuyện lo lắng, buồn rầu đó, anh bị đau bao tử mà chết trong trại cải tạo.

Lo buồn vì không tin vào Thiên Chúa, không trông cậy, nương nhờ, phó thác vào Thiên Chúa, thiếu cầu nguyện để Thiên Chúa toàn năng ban cho mình ơn sáng suốt, ơn khôn ngoan. Cần biết tạ ơn trong nghịch cảnh, nếu không biết tạ ơn trong nghịch cảnh, trong những điều bất như ý, sẽ đưa đến lo buồn. Từ lo buồn không ngủ được có thể sẽ dẫn đến bịnh thần kinh, mất trí hay sinh ra đau bao tử, đau tim, ung thư hay nhiều thứ bịnh khác mà chết.

Trong thơ thứ nhất của Thánh Phao lô gởi tín hữu Thêxalônica có nói:

“ Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng

Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh

Anh em hãy làm như vậy đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Giêsu Kitô”

 (1TX5,16-18).

Ý nghĩa của Thánh lễ:

Cha Đinh Thanh Sơn có nói về ý nghĩa của thánh lễ như sau:

*  Thờ phương Chúa

*  Ngợi khen Chúa

*  Cảm tạ Chúa

*  Xin ơn cho người

*  Xin ơn cho mình.

Khi tham dự thánh lễ, chúng ta cùng linh mục chủ tế dâng lễ trên bàn thờ, là để Thờ phượng Chúa, Ngợi khen Chúa, Cảm tạ Chúa, lập lại cuộc khổ nạn của Chúa, dâng lên Chúa những khó khăn, lo âu, đau khổ, buồn phiền vì “ Mọi nỗi lo âu, anh chị hãy trút cả cho Người, vì Người lo đến anh chị (1 Phêrô 5,7). Sau cùng, chúng ta xin ơn cho người và xin ơn cho mình. Khi Cha chủ tế dâng lễ, chúng ta, cộng đoàn dân Chúa cùng hợp nhất với Cha chủ tế để dâng lễ. Có hai ba người họp lại nhân danh Thầy thì Thầy ở giữa họ.

Sự sống, sự chết đều thuộc về quyền năng của Thiên Chúa, thì những nhu cầu bình thường khác trong đời sống hàng ngày của chúng ta Thiên Chúa không quan tâm cho chúng ta là con cái của Thiên Chúa hay sao?

 Chỉ một mình tự giải quyết những đau khổ, buồn phiền thì rất là khó. Nếu chúng ta biết chuyển trao các buồn phiền đau khổ này, san sẽ cho người khác, phó thác dâng lên cho Chúa những vui buồn, đau khổ thì cuộc đời chúng ta hiện đang sống sẽ khác chứ. Làm sao chúng ta không có niềm vui từng ngày, từng phút giây được. Có phải vậy không?

Đau khổ như thế nào đi chăng nữa cũng chỉ là một phần rất nhỏ để chúng ta thông phần với Đức Kitô chịu khổ nạn trên thánh giá lúc 33 tuổi. Nếu nghĩ đến sự đau khổ của Chúa Giêsu thì đau khổ của mình chắc không thắm vào đâu.

Trong cuộc sống hàng ngày mọi hành động, lời nói, cách sống đều có “ Chúa hiện diện” trong tinh thần “Kính Chúa, yêu người” thì chúng ta có được phần thưởng bình an hiện tạihạnh phúc đời sống vĩnh cữu mai sau.

“Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cữu.(Luca 16,9)

“Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dễ chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Luca 16,10) 

Hồng ân Thiên Chúa bao la.

Tôi đã đến tuổi về hưu. Bà xã tôi đã đến tuổi “lục thập nhi thuận nhĩ”.

Chúng tôi sống với nhau được hơn 40 năm. Ngồi nghĩ lại thời gian qua. Mười năm dạy học. Gần 8 năm tù. Sau khi ra tù, mặc dầu tốt nghiệp trường sư phạm nhưng đâu còn được dạy học nữa. Đành phải đi làm nghề bán vé số, chạy xích lô, giặt bao ny lon, đạp xe đạp chở từng kết “bia lên cơn”, vài kết nước ngọt, giao cho khách hàng để kiếm tiền mà sống.

Ở tù gần 8 năm là một bất hạnh. Gần 8 năm trong trại, chịu đựng cái đói triền miên, xa cách người thân yêu, làm sao tạ ơn Thiên Chúa được.

“Chúa dạy hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh vì điều đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Giêsu Kitô.”

Ngày hôm nay nhìn lại mới thấy tạ ơn Thiên Chúa vì con đã ở tù gần 8 năm, nếu con ở tù dưới ba năm, con đã không được xếp vào danh sách tị nạn để được đi Mỹ. Nếu lúc đi tù ở trong cảnh đói khát triền miên, sống lạnh lẻo ở núi rừng miền Bắc thiếu áo ấm, xa gia đình, tương lai mình, tương lai con cái gia đình mờ mịt, mà mình biết tạ ơn Chúa lúc đó thì đời sống trong tù chắc bình an biết bao nhiêu.

Hiện nay, mỗi sáng thức dậy thấy mình còn đi đứng được còn hít thở không khí trong lành còn ăn uống, còn đọc báo chí, sách vở được. Chỉ mất khoảng một tiếng đồng hồ ngồi trên máy “computer” là biết hết tất cả tin tức trên toàn thế giới, còn gì hạnh phúc hơn.

Rất nhiều bạn bè cùng tuổi hay nhỏ tuổi hơn đang trong tình trạng bịnh hoạn, tật nguyền, không làm ra tiền, cần trợ cấp của chánh phủ Mỹ hay cũng có nhiều người bạn đã ra đi mà mình vẫn còn sống, không phải nhờ trợ cấp xã hội, vẫn còn làm việc được. Tạ ơn Thiên Chúa, ơn lành Chúa đã ban cho con, cho gia đình con, cho các con dâu rễ cho các cháu. Tất cả là hồng ân Thiên Chúa bao la.

Có người bạn nói rằng: “Anh muốn thấy Chúa không? Đố anh thấy Chúa ở đâu”.

Rồi anh nói tiếp: “ Anh lấy thau nước và úp mặt vào thau nước đó, anh sẽ thấy Chúa liền. Anh không thở được vì anh mất không khí. Chúa đã ban cho anh không khí để anh thở mà anh đâu có để ý.

Mùa đông, lạnh quá, ra đường gặp tuyết rơi dày đặc.

Mùa hè, nhiệt độ nóng bức lên gần 100 độ F.

Tạ ơn Chúa khi gặp tuyết rơi, tạ ơn Chúa khi gặp nóng bức. Vì mình có thay đổi được gì thời tiết đâu. Sao không tạ ơn Chúa để mình vui mừng sống với hoàn cảnh đang có.

Tất cả mọi sự dầu xấu, dầu tốt, như ý hay bất như ý đều tạ ơn.

 Nếu mình có được điều như ý rồi tạ ơn Chúa ai ai cũng làm như vậy.

Gặp những điều bất như ý mà tạ ơn Chúa. Đó là mình làm trong Đức Giêsu Kitô.

Vì sao vậy? Thiên Chúa không bao giờ để cho mình chịu đựng quá sức đâu. Gặp hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, để biết rằng, tự mình không thể giải quyết được, nhờ đó, mình biết khiêm nhường, biết cầu nguyện, lòng mình biết cậy trông hướng về Thiên Chúa toàn năng.

Ví thử đường đời bằng phẳng cả, giàu có, danh vọng tột cùng, không có một thử thách, khó khăn nào; liệu mình còn giữ được tính khiêm nhường, không kiêu ngạo, để từ đó mình sẽ xa rời Thiên Chúa chăng?

“ Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến đem anh em về với Thầy để Thầy ở đâu anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.

Ông Tô-ma nói với Đức Giêsu: “ Thưa Thầy chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường? Đức Giêsu đáp: “ Chính Thầy là con đường, là sự thật, là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.(Ga 14, 1-6).

Hạnh phúc, vui tươi biết bao nhiêu nếu chúng ta biết: 

“Tạ ơn Trời mỗi sáng mai thức dậy,

Cho con còn ngày nữa để yêu thương.”

 

Phùng văn Phụng Ngày 14 tháng 01 năm 2008

(1)  Sách “ Chúa Giêsu đang sống hôm nay”  Cha Emilien Tardif.

Sách “ Quyền năng của tâm hồn biết ca ngợi” LM Nguyễn Đức Mầu chuyển ngữ từ Puissance de la Louange của Merlin R. Carothers.

VỀ MỤC LỤC
LƯƠNG TÂM CON NGƯỜI

 

LỜI MỞ ĐẦU

Trong nền Giáo dục Kitô giáo, lương tâm là một chủ đề quan trong, cần phải trình bày cho tất cả mọi người và mọi thế hệ. Bởi vì lương tâm luôn ở trong tâm hồn mọi người, cùng đi với mọi người trong suốt cuộc đời. Thư Chung năm 2007 của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam đã viết: “Giáo dục Kitô giáo còn nhấn mạnh việc huấn luyện lương tâm: Huấn luyện lương tâm không chỉ là giảng dạy cho nhau những mệnh lệnh của hệ thống luật luân lý, nhưng còn là tập cho nhau hồn nhiên lắng nghe lòng mình phán đoán thiện ác. (số 36)       
       
Nhưng lương tâm là gì ? Vai trò của lương tâm trong đời sống của loài người thế nào ? Phán quyết của lương tâm có buộc loài người phải tuân theo không ? Lương tâm có thể sai lầm không ? Lương tâm có cần phải được huấn luyện không ? Và huấn luyện bằng cách nào ?

Trong tinh thần chia sẻ, tôi dựa vào Thánh Kinh, Công đồng Vat II và Giáo lý chung của Hội Thánh để trình bày về lương tâm con người. Tôi ước mong mọi người thường xuyên lắng nghe và làm theo tiếng lương tâm ngay chính, để được sống bình an ở đời này và hưởng hạnh phúc trường sinh trong Nước Trời.

1- ĐINH NGHĨA LƯƠNG TÂM

Hội thánh Công giáo đã đưa ra nhiều định nghĩa về lương tâm, mỗi định nghĩa trình bày một khía cạnh của lương tâm như sau :

a) “Lương tâm là tâm điểm sâu lắng nhất và là cung thánh của con người; nơi đây con người hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Người vang dội trong thâm tâm họ."  (HCMV số 16)

         b)Lương tâm là một phán quyết của lý trí; nhờ đó, con người nhận biết một hành vi cụ thể mình định làm, đang làm hay đã làm, là tốt hay xấu. Trong lời nói và hành động, con người phải trung thành tuân theo điều mình biết là chính đáng và ngay lành. Nhờ phán quyết của lương tâm, con người ý thức và nhận ra những quy định của luật Thiên Chúa.” (GLCG số 1778)

         c) "Lương tâm là một lề luật của tinh thần con người, nhưng vượt trên con người. Lương tâm ra lệnh, nêu lên trách nhiệm và bổn phận, điều chúng ta phải sợ và điều có thể hy vọng…” (GLCG số 1778)

          d) “Lương tâm là sứ giả của Đấng nói với chúng ta sau một bức màn, dạy dỗ và hướng dẫn chúng ta, trong thế giới tự nhiên cũng như trong thế giới ân sủng.” (GLCG số 1778)

Như vậy, tiếng nói lương tâm chính là ân huệ mà Thiên Chúa đã ban cho loài người, như là của ăn tinh thần, mà Chúa Giêsu đã tuyên bố :

“Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra." (Mt 4,4)

Tóm lại, lương tâm là tiếng nói vô hình của Thiên Chúa trong tâm hồn con người, thúc giục con người hãy yêu mến và làm điều thiện, tránh xa điều ác.    

2- ĐỊA VỊ CỦA LƯƠNG TÂM

Lương tâm giữ địa vị rất quan trọng trong đời sống của con người. Lương tâm hướng dẫn mọi hoạt dộng của con người. Vì thế, tất cả mọi người phải thường xuyên lắng nghe và tuân theo tiếng nói của lương tâm.

Hội thánh đã xác định như sau :

- "Con người khám phá ra tận đáy lương tâm một lề luật mà chính con người không đặt ra cho mình, nhưng vẫn phải tuân theo. Tiếng nói của lương tâm luôn luôn kêu gọi con người phải yêu mến và thi hành điều thiện cũng như tránh xa điều ác. Tiếng nói ấy âm vang đúng lúc trong tâm hồn của chính con người. Quả thật, con người có một lề luật được Thiên Chúa khắc ghi trong tâm hồn. Tuân theo lề luật ấy chính là phẩm giá của con người…” (HCMV số 16)

- “Lương tâm hiện diện trong lòng người và ra lệnh (Rm 2, 14-16) đúng lúc cho con người làm lành lánh dữ. Lương tâm phán đoán các lựa chọn cụ thể bằng cách tán thành lựa chọn tốt, tố giác lựa chọn xấu.” (Rm 1, 32 ).

- “Lương tâm chứng nhận thế giá của chân lý bằng cách quy chiếu về Thiên Chúa là sự thiện tối thượng, Đấng thu hút và ban mệnh lệnh cho con người. Khi nghe theo tiếng lương tâm, người khôn ngoan có thể cảm nhận được Thiên Chúa đang nói với mình.” (GLCG số 1777)

Như vậy, Lương tâm gồm ba điều :    
        a) Nhận biết các nguyên tắc luân lý.     
        b) Áp dụng vào việc cân nhắc thực tiễn các lý do và lợi ích trong những hoàn cảnh cụ thể.     
        c) Cuối cùng phán quyết về các hành vi cụ thể sắp làm hay đã làm. Nhờ phán quyết khôn ngoan của lương tâm, con người nhìn nhận, trong thực tiễn và cụ thể, chân lý điều thiện đã được lý trí nêu lên. Người khôn ngoan là người chọn theo phán quyết này.”
(GLCG số 1780)

Vì thế, “Con người có quyền hành động theo lương tâm và trong tự do, để tự mình có những quyết định luân lý. "Không được cưỡng bức ai hành động trái với lương tâm của họ. Cũng không được ngăn cản họ hành động theo lương tâm, nhất là trong lãnh vực tôn giáo." (GLCG số 1782)

3- PHÁN ĐOÁN THEO LƯƠNG TÂM

a) Lương tâm phán đoán có khi khi đúng, có khi sai :

Từ khi nguyên tổ phạm tội, tinh thần của loài người đã trở nên yếu đuối, và tội lỗi đã làm cho lương tâm không còn hoàn toàn trong sáng nữa. Vì thế, lương tâm có thể phán đoán đúng, có khi cũng sai lầm.

Hội Thánh xác định như sau :

- “Khi phải đứng trước một chọn lựa, lương tâm có thể phán đoán đúng, hợp theo lý trí và luật Thiên Chúa, hoặc ngược lại, phán đoán sai.” (GLCG số 1786)

b) Lương tâm phán đoán đúng, khi tìm sự công chính và thiện hảo :       

Hội Thánh trình bày như sau :      
        - “Đôi khi gặp những hoàn cảnh không phán đoán chắc chắn được nên khó quyết định, con người phải luôn luôn tìm kiếm điều công chính và thiện hảo, cũng như nhận định đâu là thánh ý trong lề luật Thiên Chúa.”
(GLCG số 1787)

c) Lương tâm phán đoán đúng, khi đón nhận sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và sự khôn ngoan của những người hiểu biết:

- “Muốn vậy, chúng ta phải cố gắng giải thích đúng đắn kinh nghiệm của mình và các dấu chỉ thời đại, nhờ vào đức khôn ngoan, lời khuyên bảo của những người hiểu biết cũng như sự trợ lực của Chúa Thánh Thần và ân sủng của Người.” (GLCG số 1788)

Thật vậy, Chúa Thánh Thần luôn hướng dẫn lương tâm con người; như thánh Phaolô đã nói : “Có Đức Ki-tô chứng giám, tôi xin nói sự thật, tôi không nói dối và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn,” (Rm 9,1). “Chúng tôi tin rằng chúng tôi có lương tâm ngay lành, muốn ăn ở tốt trong mọi hoàn cảnh.” (Dt 13,18)

d) Lương tâm phán đoán đúng, khi dựa theo các nguyên tắc luân lý :

- “Một vài quy tắc luân lý có thể áp dụng trong mọi trường hợp :

1/ Không bao giờ được phép làm điều xấu để đạt một kết quả tốt. (nghĩa là mục đích tốt và các phương tiện đạt đến mục đích đều phải tốt) :

2/ Khuôn vàng thước ngọc : "Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta." (Mt 7,12; Lc 6,31;Tb 4,15).

3/ Đức bác ái Kitô giáo luôn luôn đòi chúng ta tôn trọng tha nhân và lương tâm của họ. "Phạm đến anh em và làm thương tổn lương tâm của họ... là phạm đến Đức Kitô" (1Cr 8,12). "Tốt nhất là tránh những gì gây cớ cho anh em mình vấp ngã." (Rm 14,21). (GLCG số 1789)

4- NGUYÊN NHÂN PHÁN ĐOÁN SAI LẦM

Nhiều nguyên nhân dẫn đến lương tâm phán đoán sai lầm :

a) Không đón nhận sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần:

Khi chúng ta không đón nhận sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, thì lúc đó ma quỷ, tiền bạc, danh vọng và quyền lực sẽ xen vào, làm cho lương tâm chúng ta bị lu mờ, sai lầm, dần dần trở nên mù quáng. Trong thực tế, lương tâm của nhiều người ngày nay, kể cả một số người có tôn giáo, đã trở thành mù quáng, họ là những kẻ dối trá, bất công, ích kỷ, giêt người, ôm bom giết người hàng loạt. . .   

 Thánh Kinh đã khẳng định : “Kẻ gian ác tự đưa ra bằng chứng để lên án chính mình là hèn hạ: bị lương tâm dày vò nó luôn cảm thấy mình khổ sở.(Kn 17,11) Và “Phúc thay ai không bị lương tâm cắn rứt, và kẻ không rơi vào thất vọng.” (Hc 14,2)

b) Thiếu hiểu biết về các nguyên tắc luân lý :

“Con người luôn luôn phải tuân theo phán đoán chắc chắn của lương tâm mình. Nếu chủ ý hành động nghịch với phán đoán ấy, con người tự kết án chính mình. Nhưng có thể lương tâm thiếu hiểu biết, nên phán đoán sai lầm về các hành vi sẽ làm hoặc đã làm.” (GLCG số 1790)

c) Không lo lắng tìm kiếm chân lý và với thói quen phạm tội sẽ làm cho lương tâm dần dần trở nên mù quáng :

“Thông thường, cá nhân phải chịu trách nhiệm về sự thiếu hiểu biết ấy. Điều này xảy đến khi : "Con người không mấy lo lắng tìm kiếm chân lý và điều thiện, cũng như khi vì thói quen phạm tội mà lương tâm dần dần trở nên mù quáng"  (GS 16). “Trong các trường hợp đó, con người phải chịu trách nhiệm về điều xấu đã làm.” (GLCG số 1791)

d) Thiếu hiểu biết về Đức Kitô và Tin Mừng Ngài rao giảng, theo gương xấu … và khước từ quyền bính và giáo huấn của Hội Thánh :

Những lệch lạc trong phán đoán luân lý có thể xuất phát từ thiếu hiểu biết về Đức Kitô và Tin Mừng; gương xấu của người khác; nô lệ các đam mê; nghĩ sai lạc về tự do lương tâm; khước từ quyền bính và giáo huấn của Hội Thánh; thiếu hoán cải và bác ái.” (GLCG số 1792)

Nếu không thể khắc phục được tình trạng thiếu hiểu biết, hoặc nếu phán đoán sai lạc không do trách nhiệm của chủ thể luân lý, thì người đó không chịu trách nhiệm về điều xấu đã làm. Tuy nhiên, điều xấu ấy vẫn là điều xấu, một khiếm khuyết, một rối loạn; do đó, phải ra sức uốn nắn lương tâm cho khỏi sai lầm.” (GLCG số 1793) 

5- HUẤN LUYỆN LƯƠNG TÂM

a) Việc huấn luyện lương tâm là rất cần thiết và phải theo đuổi suốt đời :

Hội Thánh khẳng định rằng :

-“Lương tâm phải được huấn luyện và phán đoán luân lý phải được soi sáng. Một lương tâm được huấn luyện tốt sẽ phán đoán ngay thẳng và chân thật. Lương tâm này sẽ đưa ra những phán quyết theo lý trí, phù hợp với điều kiện đích thực như Đấng Sáng tạo đầy khôn ngoan muốn. Việc giáo dục lương tâm rất cần thiết cho những người chịu các ảnh hưởng tiêu cực và bị tội lỗi cám dỗ làm theo ý riêng và bỏ những giáo huấn chính thức.” (GLCG số 1783) 

- “Giáo dục lương tâm là nhiệm vụ phải theo đuổi suốt đời. Ngay từ thời thơ ấu, trẻ con phải được hướng dẫn để nhận biết và thực hành luật nội tâm đã được lương tâm công nhận. Một nền giáo dục tốt dạy con người sống đức hạnh, bảo vệ và giải thoát con người khỏi sợ hãi, ích kỷ và kiêu căng, những mặc cảm tội lỗi và thái độ tự mãn, những thứ phát xuất từ sự yếu đuối và dễ sai lầm của con người. Giáo dục lương tâm bảo đảm tự do và tạo bình an trong tâm hồn.” (GLCG số 1784)      

b) Lắng nghe Lời Chúa trong Thánh Kinh, với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần và sự hương dẫn của Hội Thánh :

Từ khi nguyên tổ phạm tôi, thì tiếng nói vô hình của Thiên Chúa trong tâm hồn con người, tức là lương tâm, bị tội lồi làm lu mờ. Vì thế, Thiên Chúa yêu thương loài người, Ngài đã ban cho loài người tiếng nói hữu hình, chính là Lời Chúa trong Thánh Kinh, để bổ túc cho tiếng nói vô hình là lương tâm. Quả thật Thiên Chúa đã sai Ngôi Lời là Chúa Giêsu đến ở giữa loài người để dạy dỗ loài người một cách đầy đủ và chính xác. Như vậy, chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa trong Thánh Kinh để huần luyện lương tâm ngay chính.

Hội thánh đã khẳng định như sau : 

- “Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường để huấn luyện lương tâm. Chúng ta phải lãnh hội Lời Chúa trong đức tin, trong kinh nguyện và đem ra thực hiện; phải kiểm điểm lương tâm dưới ánh sáng Thập Giá Đức Kitô; nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp, có các chứng từ và lời khuyên nhủ của anh em giúp đỡ, được giáo huấn chính thức của Hội Thánh hướng dẫn.” (DH 14). (GLCG số 1785)

Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai biết lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa :

 - “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa.” (Lc 11,28)

- “Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá . . . còn ai nghe những lời Thầy nói đây mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát.”  (Mt 7,24.26)

c) Cầu nguyện, sám hối và lãnh các bí tích :

Việc cầu nguyện hằng ngày, lắng nghe lời kêu gọi sám hối của Hội Thánh và lãnh nhận các bí tích sẽ làm cho lương tâm luôn ngay chính :

Chính Thánh Phaolô cũng đã xin mọi người cầu nguyện cho ngài : Xin anh em cầu nguyện cho chúng tôi. Chúng tôi tin rằng chúng tôi có lương tâm ngay lành, muốn ăn ở tốt trong mọi hoàn cảnh.” (Dt 13,18)

Hội Thánh cũng luôn kêu gọi : mỗi người phải quay về với nội tâm, để có thể nghe được và tuân theo tiếng lương tâm. Ngày nay, việc quay về với nội tâm càng cần thiết hơn bao giờ hết, vì nếp sống hiện đại thường làm chúng ta trốn tránh suy nghĩ, kiểm điểm hay phản tỉnh : "Anh em hãy quay về tự vấn lương tâm....Hãy quay về với nội tâm. Trong mọi sự anh em làm, hãy nhìn lên Thiên Chúa, Người chứng giám cho anh em." (T. Âu-tinh) ((GLCG số 1779)            

- “Khi xác định lỗi lầm đã phạm, lương tâm nhắc nhở ta phải cầu xin ơn tha thứ, thực hành điều thiện và luôn trau dồi nhân đức nhờ ân sủng của Thiên Chúa trợ giúp : "Chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa. Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết hết mọi sự." (1Ga 3,19-20 ) (GLCG số 1781)

Thánh Phêrô đã giải thích về ý nghĩa của phép rửa như sau :

- “Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô.” (1 Pr 3,21)

Thánh Phaolô cũng khẳng định Máu Chúa Kitô thanh tảy lương tâm chúng ta :

- “Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.” (Dt 9,14)  

MÙA CHAY - 2008

Lm Giuse Hoàng Kim Đại     kimdai65@yahoo.com

VỀ MỤC LỤC
BẰNG HÀNH ĐỘNG KHÔNG BẰNG LỜI NÓI (3)
 

Hành vi quậy rối của trẻ con trong siêu thị đã trở nên quá thông thường đến nỗi có thể chấp nhận được như bình thường. Thật ra siêu thị không phải là sân chơi. Trẻ con nên được huấn luyện để hiểu sự khác biệt đó và để có hành động thích hợp. 

Trước khi vào siêu thị, bà mẹ có thể nói: “Con ơi, siêu thị chứ không phải sân chơi. Con có thể đi theo mẹ và giúp mang đồ cho mẹ. Và nếu có cậu bé nào nhảy lên xe, bà mẹ ngay tức khắc nắm lấy tay, dẫn nó ra khỏi siêu thị và cho vào xe. “Mẹ xin lỗi vì con không có hành vi tử tế trong siêu thị cho nên con phải ngồi trong xe chờ mẹ”. 

Với một hành vi cứng rắn như thế, bà mẹ có thể tỏ cho cậu bé thấy rằng bà muốn giáo dục. Bà không cần nói cho nó vào lần đi chợ kế tiếp, nhưng cho phép nó một sự chọn lựa đi với bà nếu nó nghĩ nó có thể tự chế. Bà phải chống lại sự cám dỗ dùng lời nói để đe dọa như : “Nếu con không tử tế con phải ở trong xe. Con không muốn điều đó xảy ra phải không? Vậy con phải nên tốt, có đúng không?” Nó sẽ không bao giờ. 

Cu bé Quân 4 tuổi chạy dậm trên những luống vườn mà mẹ nó vừa gieo hạt giống. “Quân, con đi ra khỏi vườn ngay”. Cu bé cứ chạy qua chạy lại trên đó dường như không muốn nghe lời mẹ. “Quân, con chạy ra ngoài kia ngay. Con dậm nát hết rồi”. Nó vẫn tiếp tục chạy qua chạy lại. Bảo những 4 lần, mẹ nó mới quát lớn. Nó vẫn cứ thế, vừa chạy vừa cười cho tới khi mệt, nó chạy tới bụi cây và ngồi xuống trong bóng mát. Mẹ nó liếc nhìn nó và tiếp tục công việc của bà. 

Một ít ngày sau, cậu bé chạy sang vườn người hàng xóm và cũng chạy trên những luống họ mới gieo. Một cách cố ý, nó bước mạnh lên những luống đã được làm đàng hoàng. Bà láng giềng nắm lấy tay nó lôi ra ngoài cữa vườn. “Cậu bé ơi, coi kìa. Cậu không được vào vườn nầy”. Nhìn lên, bà thấy mẹ nó đang đến với nó và cũng thấy rằng bà mẹ đã nghe biết tất cả những điều đó. Bà mẹ mới hỏi: “Nó đã quậy phá phải không?” Bà láng giềng đáp lại cách giận dữ: “Dĩ nhiên là nó đã phá phách. Tôi không muốn nó ở trong vườn nầy bây giờ và về sau”. Bà mẹ đáp : “Cho tôi xin lỗi”. Bà láng giềng tiếp tục: “Nó chẳng kể gì đến tôi. Tốt hơn là nó không trở lại vườn nầy nữa”. Cậu bé bật khóc. Bà mẹ an ủi và bế nó lên. Bà mẹ trở về vườn của bà với đứa bé đang khóc tựa vào vai bà trong lúc bà an ủi nó chống lại bà già nhà quê đó. 

Quân là một cậu bé có hành vi không tốt, nó cảm thấy rằøng ngoại trừ hành động theo cách của nó, nó không có chỗ đứng. Nó là một bạo chúa. Nó làm như nó thích và không ai có thể ngăn cản được, ít ra là không với lời nói. Nó chỉ ngưng nhảy nhót trên mảnh vườn của má nó khi nó mệt mỏi sau khi đã làm mẹ nó chán đủ. Sự cảnh cáo liên tục của mẹ nó không có ích gì với lỗ tai điếc. Vì bà không làm gì cả ngoại trừ chỉ nói, nên cậu bé cứ tiếp tục làm như nó thích. 

Bà hàng xóm thì khác, bà hành động. Bà nắm cổ nó dẫn ra khỏi vườn. Dĩ nhiên, bà tỏ sự giận dữ với cả hai mẹ con qua lời phê bình về sự không vâng lời của nó. Đáp lại, bà mẹ cậu bé cảm thấy nó bị tấn công và ngay tức khắc an ủi nó. 

Nếu cậu bé hành động trong cách thế đó tạo nên sự giận dữ và thù địch, nó nên bị quở trách để từ bỏ hành vi quậy phá của nó hơn là được che chở chống lại người ta với tình cảm bệnh hoạn đó. Với cảm giác tội nghiệp nó, bà mẹ đã khuyến khích nó đi xa hơn nữa trong tư thế hành xử như một bạo chúa. Bây giờ nó biết rằng nó có thể làm như nó thích không chỉ ở nhà, mà hơn nữa mẹ nó còn bảo vệ nó khỏi những hậu quả của việc làm theo ý nó thích ở bên ngoài. Nhưng hành vi bạo chúa của cậu bé sẽ không được chấp nhận ở bất cứ nơi nào trong xã hội. Bạo chúa không còn có chỗ trong xã hội. Thật ra cậu bé muốn thuộc về trong một nhóm. Nó sống một mình trong thế giới người lớn. Và nó là đứa trẻ được cưng chìu nhất vì nó được sinh sau đến nỗi bố mẹ đều chìu theo những ước muốn kỳ cục của nó và tự biến họ thành những người đầy tớ đáng thương. Làm như thế, họ đã làm hư đi cái bản tính tự nhiên “muốn thuộc về” bằng sự hữu dụng, và họ đã khuyến khích nó có quan niệm sai lầm rằng nó có thể thuộc về chỉ nếu nó có quyền hành trên tất cả những người lớn không quyền. 

Để giúp cậu bé ra khỏi lối đi sai lầm đó, bố mẹ nó phải nhận thức ra cái quan niệm sai lầm của họ về cách thế diễn tả tình yêu. Và rồi họ phải hành động hơn là nói.

Cậu bé lẽ ra nên được cho một ấn tượng sâu đậm hơn trong cảnh vườn đó nếu bà mẹ nắm lấy tay nó và dắt cổ nó về nhà. “ Mẹ rất tiếc con đã không có hành vi tử tế. Con không được ra ngoài cho đến khi con sẵn sàng”. Bà mẹ không cần cắt nghĩa dài dòng về hành vi của nó. Nó biết rất rõ rằng nó không nên chạy trên luống vườn được trồng trọt của người ta. Như là một bạo chúa, chắc chắn lối răn dạy mới nầy sẽ gặp phải sự chống cự mãnh liệt của nó. Vì thế, bố mẹ phải cứng rắn. Khi nó lại giẫm lên lối trồng trọt trong vườn, bà mẹ dẫn nó vào nhà và nói: “Con không được ra khỏi đây cho tới khi nào con biết xử sự lịch sự”. Cậu bé nên được cho cơ hội để làm lại cuộc đời và luôn bị dẫn độ về nhà mỗi khi nó tỏ ra không muốn cộng tác. Bao lâu bà mẹ còn giữ được thái độ trầm tĩnh và yên lặng thiết lập quyền hạn để giữ trật tự thì sẽ không có sự tranh chấp quyền hành. Sự cứng rắn của bà sẽ được hiểu và dĩ nhiên hành động của bà sẽ mang lại sự trọng kính. Cậu bé cần học sự kính trọng. Hành động chứ không phải lời nói sẽ mang lại kết quả đó. 

Lm. levanquang, tiến sĩ tâm lý

VỀ MỤC LỤC
MỘT THOÁNG SUY TƯ VỀ THIÊN CHỨC VÀ SỨ VỤ LINH MỤC

 

Nhân thứ năm Tuần Thánh kỷ niệm Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể và chức Linh Mục, tôi muốn suy tư ít điều về chức thánh Linh mục mà tôi được nhận lãnh từ 19 năm nay. Thật là một hồng ân lớn lao tôi không ngờ đã nhận được ở tuổi trung niên. Đây thật quả là một bí nhiệm trong chương trình của Thiên Chúa dành cho mỗi người và cách riêng cho tôi, một tạo vật lẽ ra không xứng đáng và thích hợp để lãnh nhận hồng ân này. Tôi không hề “khiêm nhường giả tạo” để thú nhận như thế.Tuy nhiên, suy nghĩ lại trường hợp những người đã được kêu gọi làm ngôn sứ, làm tông đồ để lãnh đạo hay dẫn dắt Dân Chúa từ thời Cưụ Ước đến Tân Ước, thì tôi lại  thêm can đảm và yên tâm bước đi trong ơn gọi của mình.Thật vây, cứ xét trường hợp của ông Mô- sê và Vua Thánh Đavid làm tiêu biểu. Môsê từng là một tên sát nhân , đã giết một người Aicập và phải trốn sang vùng đất  Mê-đi-an để làm nghề chăn chiên cho cha vợ  là tư tế Rơ-u-en. Ông lại không có tài ăn nói như ông đã viện ra để từ chối Thiên Chúa khi Ngài sai ông đến gặp Vua Pharao để xin đem dân Do Thái hồi  hương.Vậy mà Thiên Chúa vẫn không thay đổi ý định chọn ông làm lãnh tụ để dân đưa dân của Ngài ra khỏi Ai Cập. (x. Xh 1 -4).  Đến Vua Thánh Đa-vít thì người ta còn phải ngạc nhiên hơn nữa. Trước hết,  Đavít chỉ là một câu bé chăn chiên, vóc dáng nhỏ bé, không có gì là oai phong, chững chạc như Ê-li-áp, một trong những người con trai của Jesse mà  Samuel đã lầm tưởng là Chúa đã chọn để phong vương thay cho vua Saul. Nhưng không, Chúa phán bảo Samuel “ Đừng xét đoán theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó... Thiên Chúa không nhìn theo kiểu của người phàm: người phàm chỉ nhìn điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì nhìn tận đáy lòng.” ( 1 Sm 16: 6-7). Thế là Đa-vit đã được sức dầu phong vương thay cho Saul. Nhưng  khi ở trên ngôi báu, ngoài những việc tốt đã làm,  Đavít cũng đã pham  tội to lớn  như cướp vợ của U-ri-gia và còn sắp đặt để cho người chồng bất hạnh này bị giết ngoài trận địa ! ( x.2Sm 11: 2-14). Nhưng Đavit đã thực tâm sám hối và đã được tha thứ để trở thành vị đại thánh của Dân tộc Do Thái.

Đến thời Tân Ước, Chúa Giêsu cũng  đã làm chuyện  “ngược đời”:  Ngài không chọn những người thông thái trong hàng luật sĩ, cũng không chọn những người tự cho là thánh thiện trong giới Biệt phái. Ngược lại, Chúa đã chọn những  người rất tầm thường làm môn đệ. Đó là những ngư phủ thất học miền biển hồ Gali-lê, kể cả người bị xã hội coi là “tội lỗi” vì làm nghề người thu thuế  như Mát thêu.  Đặc biệt , Chúa vẫn chọn Phêrô làm Giáo Hoàng tiên khởi để lãnh đạo  Giáo Hội sơ khai, mặc dù Phêrô đã 3 lần công khai chối Chúa. Sự kiện này cho thấy Chúa chọn ai không vì phẩm chất tốt sẵn có của người ấy, mà vì Chúa muốn làm “sự lạ lùng “ nơi họ mà thôi. Tôi tin chắc những ai được mời gọi làm tông đồ cho Chúa, cụ thể là làm linh mục,  cũng đều có chung nhận định này. Như vậy, không ai có thể  tự kiêu hãnh gì được mỗi khi nghĩ đến lý do  mình được mời gọi.

Tuy nhiên, trọng tâm của bài suy tư ngắn này không nhằm đào sâu nền tảng thần học  về ơn gọi  và chức linh mục mà chỉ  nhằm nói lên một vài  suy tư  về linh đạo (spirituality) và chức năng ngôn sứ ( prophetic office) của linh mục mà thôi.

Thật vậy, suy nghĩ về hai phạm vi trên,  tôi đặc biệt chú ý đến hai lời dạy bảo sau đây của Chúa Giêsu :

I-  Trước hết, khi nói với các môn đệ mà Ngài sai đi, Chúa Giêsu đã căn dặn :“Anh  em hãy ra đi, Này Thầy sai anh  em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị giầy dép..” ( Lc 10: 3-4)

Chắc chắn Chúa Giêsu chỉ có ý khuyên  các tông đồ trên hết phải trông cậy vào Chúa cho sự thành công của mọi việc họ muốn làm,  vì “ không có Thầy, anh  em chẳng làm gì được. (Ga 15: 5). Như thế, họ không nên đặt nặng vấn đề phương tiện vật chất khi thi hành sứ vụ. Thời các thánh tông đồ thì nhu cầu vật chất không phức  tạp và cần thiết như thời nay. Họ không có nhiều “bills” phải trả như các linh mục coi xứ  bây giờ, ( đặcbiệt  ở các nước Âu –Mỹ, ÚC , Tân Tây Lan). Họ  không phải mua bảo hiểm sức khỏe và cũng không cần xe cộ để di chuyển như  linh mục ngày nay. Vì thế, họ không cần tiền để chi phí tiêu dùng. Tuy nhiên, dù bây giờ người tông đồ cần tiền và nhiều phương tiện vật chất hơn xưa, nhưng không vì thế mà không sống được tình thần khó nghèo của Phúc Âm mà Chúa Giêsu đã nêu gương sáng trước tiên. Gia tài của Chúa chỉ có hang bò lừa khi Người mới sinh ra và cây thập giá khi chết đi.Tuyệt đối không cửa, không nhà, không tài sản, không đền thờ, nhà cầu nguyện. Đúng là “chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” ( Mt 8: 20).  

Tuy nhiên, trong hoàn cảnh thế giới ngày nay, không tông đồ nào có thể sống “khó nghèo về vật chất” như Chúa Giêsu được. Ngay cả các tu sĩ Phanxicô và Đa Minh trước kia chuyên đi ăn xin ngoài đường phố  thì nay cũng không còn thực hành hình thức khó nghèo này nưã. Dầu vậy, không phải vì thế mà  “cái nghèo” của Chúa Kitô không còn giá trị thực tế nữa.  Giáo Hội vẫn đề cao và rao giảng sự khó nghèo của Chúa đấy chứ  ? Đó là sự khó nghèo về tinh thần để không  ham mê tiền bạc và của cải vật chất đến độ quên mất hay coi nhẹ sự  giầu sang phú qúi của Nuớc Trời, nơi trộm cắp không thể bén bảng và mối một không thể gặm nhấm được. Nhưng thực tế,  linh mục, hình ảnh Chúa Kitô thứ hai (Alter Christus) có thực sự sống cái nghèo này hay không?  Hay chỉ giảng cho người khác nghe và bảo người ta thực hành , còn mình thì lại không sống điều mình rao giảng ?  Mình giảng đức bác ái, đại lượng cho người khác, trong khi không sống đức ấy ngay với anh  em trong một nhà , hay trong một cộng đồng huynh đệ nhỏ bé. Và đó mới là vấn đề cần suy tư, trăn trở.

Vẵn biết, không ai lại áp dụng cách máy móc lời Chúa căn dặn các tông đồ xưa kia vào hoàn cảnh xã hội thời nay. Nhưng không nên vì thực tế phải sống mà chậy theo đồng tiền và phương tiện vật chất đến gây tai tiếng, phương hại cho uy tín và sứ vụ rao giảng của linh mục ở khắp nơi.

Qua Thánh chức được khai sinh trong đêm tiệc ly, linh mục được tham dự vào Chức Linh Mục đời đời của Chúa Kitô để thi hành ba chức năng cao trọng là tư tế, ngôn sứ và vương đế. Nhưng trước hết linh mục phải nên giống Chúa Kitô, “ Người vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh  em, để lấy cái nghèo  của mình mà làm cho anh  em trở nên giầu có.” ( 2 Cor 8: 9).

Chúa Kitô chắc chắn không hề đóng kịch nghèo khó để phỉnh gạt ai, để bảo ai lội xuống xình lầy còn mình ung dung đi trên bờ khô ráo. Không nghiêm khắc truyền cho ai phải sống khó nghèo, không được có tiền trong túi, trong khi  mình thì ăn sung mặc sướng, ở nhà cao cửa rộng với mọi tiện nghi, và còn đi khắp nơi để quyên thêm tiền cho những  nhu cầu bất tận. Nếu không vì ham mê tiền của , thì tại sao lại có một số linh mục đã làm giấy tờ gỉa mạo, giả tàn tật để đi quyên tiền khiến bị phanh phui tố cáo trên truyền thông, làm xấu hổ cho số  đông  linh mục thực sự  sống khó nghèo, không lợi dụng hoàn cảnh để đi xin tiền triền miên ở khắp nơi ? Và cũng vì mê tiền nên có người đã từ bỏ sứ vụ sau mấy chuyến xuất  ngoại, kiếm được khá nhiều dollars !

Lại nữa, cũng vì ham tiền nên rất nhiều linh mục đã không dám nói rõ cho giáo dân biết về giá bổng lễ phải trả để cứ ung dung lấy gấp ba, gấp bốn số tiền qui định cho một ý lễ !  Có người còn chê ít , không nhận dâng lễ khi người xin chỉ có 5 hay 10 dollars ! (có linh mục đã nói thẳng với người xin lễ sau khi mở phong bì thấy có 10 dollars:  thôi  để tôi gửi đi nơi khác nhờ làm nhé..!, nhưng khi đưa thêm 10 dollars nữa, thì linh mục lại vui vẻ ghi vào sổ lễ !)

Tệ hại hơn nữa, một số linh mục  và nhà Dòng  đã bầy ra việc “xin lễ đời đời” và  “ mua hậu” để lấy hàng chục ngàn dollars của những người nhẹ dạ không am hiểu giáo lý về mục  đích xin lễ cầu cho các người đã qua đời. Như vậy, linh mục có sống đúng với giáo lý và tinh thần khó nghèo mà Chúa Giêsu đã nêu gương sáng hay không ? Và như vậy có giúp mở mang Nước Chúa cách hưũ hiệu và giúp người ta nhận ra Chúa Giêsu khó nghèo nơi các môn đệ thời này của Người hay không ?

II-  Liên quan đến chức năng ngôn sứ, tôi đặc biệt chú ý câu trả lời  sau đây của Chúa Giêsu cho Tổng trấn Phi,la-tô xưa kia: “ Tôi đã sinh ra và đến thế gian vì điều này:

Đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” ( Ga 18:37)

Chúa làm chứng cho sự thật vì Ngài là “ Đường, là sự Thật và là sự Sống”. Linh mục được chia sẻ chức năng ngôn sứ của Chúa Kitô, thì hơn ai hết và quan trọng nhất trong sứ vụ, là phải nói sự thật, giảng sự thật và làm chứng cho sự  thật,  dù có phải hy sinh mạng sống như Chúa Kitô, Thầy Chí Thánh của mình. Nhưng tiếc thay, qua các thời đại và chế độ chính trị, nhiều linh mục đã không sống trung thành với chức năng này. Họ đã trở thành  những người có tai mà không nghe, có mắt mà không nhìn, hay nhìn đen ra trắng chỉ vì ham mê danh vọng và địa vị trần thế, hay vì muốn an thân để cầu lợi. Cụ thể, đã có những linh mục khom lưng làm tay sai cho thế quyền để hại anh  em và để ngầm phá Giáo Hội chỉ vì tham vọng cá nhân và danh lợi  trần thế!  Chính vì  thân phận  “ tay sai” mà có  người  đã chà đạp sự thật,  đổi trắng thay đen, bóp  méo sự kiện lịch sử mặc dù mình có học vị cao về Sử học, đáng lẽ phải làm chứng cho sự kiện  lịch sử này. Và cũng vì “chức năng tay sai” mà một số người khác cũng đã vô liêm sỉ  uốn ba tấc luỡi nịnh bợ  chế độ với những lời ca tụng trơ trẽn còn để đời. Họ lầm tưởng như vậy là thi hành sứ mạng làm “tốt Đạo, đẹp đời”. Nhưng thật ra, họ đã phản bội sứ vụ và chức năng ngôn sứ của mình.

Linh mục của Chúa Kitô tuyệt đối không có vai trò chính trị nào để ủng hộ hay chống đối ai. Linh mục chỉ có chức năng cao cả là làm chứng cho sự thật như Đức Kitô đã nói về lý do Người đến trong trần gian cách nay trên 2000 năm. Sự thật đó chính là Đức Kitô, Đấng đã đến để giải phóng cho con người khỏi  nô lệ cho mọi tội lỗi trá hình  dưới  mọi hình thái của gian ác, độc dữ, gian manh, ích kỷ , lãnh cảm truớc sự đau khổ của người khác,  bất công, bóc lột,  tham ô, luồn cúi  nịnh bợ để trục lợi và hại người,  hèn nhát thay trắng đổi đen, ham mê tiền của, danh vọng và mọi thú vui vô luân, bất chánh… của văn  hoá sự chết.

Chỉ có sự thật là Đức Kitô mới  giải phóng cho con người khỏi nô lệ cho sự dữ , sự mê lầm để tiến đến hạnh phúc trường sinh mà thôi.

Không trung thành với sứ mạng và chức năng làm chứng cho sự thật, linh mục sẽ là dấu phản chứng tệ hại hơn mọi hình thức phản chứng khác của những ai có tránh nhiệm làm nhân chứng cho Chúa Kitô trong trần thế này. Hơn thế nữa, linh mục sẽ đánh mất “căn tính “(identity) của mình khi trà trộn vào những phạm vi thế tục, dù với danh nghĩa là “đem đạo vào đời ”hay “sống và hành đạo trong lòng dân tộc” nhưng thực chất chỉ là tay sai cho thế quyền để bênh  đỡ, ”mẹ hát con khen khéo”  bao che cho những việc mà đáng lẽ phải có can đảm lên tiếng phê bình  hay phản đối  vì chức năng làm chứng cho sự thật,  tức là đứng về phe Đức Kitô.

Đạo Công Giáo (Catholicism) mà Chúa Giêsu khai sinh không hề có mục đích  trở thành “quốc giáo” ở bất cứ nơi nào trên trái đất này. Chúa không sai các Tồng Đồ xưa kia và Giáo Hội ngày nay đi bắt bớ và ép buộc ai  phải theo Đạo. Ngược lại, Chúa chỉ mời gọi con người chấp nhận và bước  đi theo Người là Đường, là sự Thật và là sự Sống mà thôi. Ai không tin, không theo thì đó là quyền tự do của người ấy, và Chúa hoàn toàn tôn trọng tự do lựa chọn này. Chấp nhận Đạo của Chúa là chấp nhận sống trong tình thương, bác ái, công lý, bình đẳng và hoà bình. Đó là những giá trị mà mọi nền văn hoá, văn mính và mọi dân tộc đề cao và ham chuộng. Như thế, Đạo Công Giáo phải là tài sản chung của mọi dân tộc yêu chuộng tự do, công lý, hoà bình và nhân ái. Nghĩa là,  Công Giáo không cần mang nhãn hiệu riêng của dân tộc nào để được nhìn nhận là muốn đồng hành với dân tộc đó trong môi trường xã hội đặc thù. Bầy ra  loại “nhãn hiệu” nào chỉ là phương thức nhằm  loại bỏ những ai không chấp nhận và gây chia rẽ giữa những người khom lưng làm tay sai với đa số không tán thành mà thôi. Đạo Công Giáo, tự bản chất là Đạo yêu thương và công bình.

Yêu thương thì  phải có đối tượng cụ thể và thực tế. Người Công giáo cũng là người công dân của bất cứ quốc gia nào nơi mình sinh ra và lớn lên. Như thế, đương nhiên người công giáo phải yêu tổ quốc và đồng bào của mình bất kể những khác biệt về tín ngưỡng, địa vị xã hội và trình độ văn hóa. Đó là điều tất nhiên không cần ai phải nhắc nhở, hô hào. Cũng như không cần phải gia nhập một tổ chức trần thế nào  thì mới được coi là mến Chúa, yêu nước, yêu dân tộc. Nói khác đi, yêu Chúa thì phải yêu người cách chung và yêu đồng bào của mình cách riêng. Yêu đồng bào cũng gắn liền với yêu quê hương trần thế nới mình sinh trưởng và hãnh diện là công dân. Nhưng yêu nước, yêu quê hương không đồng nghĩa với yêu chế độ cai trị xã hội vì  chế độ hay hệ thống cai trị  xã hội có thể tốt, có thể xấu, có thể phù hợp hay nghịch với  những giá trị của Đạo mà  mình tin và thực hành.

Tóm lại, linh mục của Chúa Kitô phải là hiện thân cho Chúa về những giá trị và chân lý mà Người đã rao giảng và trả giá bằng chính mạng sống của mình.

Lậy Chúa Kitô, Thầy Chí Thánh, xin giúp chúng con sống can trường với linh đạo và chức năng ngôn sứ mà Chúa đã chia sẻ cho chúng con qua Chức Linh Mục.

LM. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.

VỀ MỤC LỤC

THĂNG TIẾN CÁC MỐI QUAN HỆ GIA ĐÌNH QUA ĐÀM THOẠI

 

Văn hào Leon Tolstoy nói, “Đau khổ thì mỗi người mỗi khác, nhưng những kẻ hạnh phúc thường có điểm tương đồng”.  Khi nghiên cứu về gia đình, các chuyên gia tâm lý nhận ra trong các gia đình lành mạnh thường có những yếu tố tương đồng sau:

  • Đàm thoại cởi mở

  • Niềm cảm kích, sự tôn trọng lẫn nhau

  • Đời sống tinh thần, tôn giáo cao

  • Khả năng thích nghi, uyển chuyển với các thay đổi

  • Rõ ràng trong các quy luật gia đình

Họ đều đồng ý rằng, vấn đề đàm thoại là nguyên do hàng đầu gây đổ vỡ gia đình, thứ đến là các vấn đề như tiền bạc, thân thuộc nội ngoại hai bên, tình dục, quan hệ qúa khứ và con cái... 

Để nhận diện gia đình có hòa hợp hay không, người ta có thể xem cách họ trò chuyện với nhau.  Khi hỏi người vợ, “Thế ổng ở đâu rồi?” và được trả lời, “Thằng chả ngồi ở đằng kia”, thì chúng ta biết mối liên hệ giữa hai người đang có vấn đề. 

Một gia đình lành mạnh khi các thành viên trong nhà có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.  Họ dành thì giờ cho nhau và thực sự thích thú khi gần nhau.  Sự gần gũi không phải là tình cờ, nhưng họ sắp xếp thì giờ để cùng ăn uống, giải trí, làm việc chung.  Các nghiên cứu còn tìm ra điểm lý thú là các gia đình lành mạnh thường thích sinh hoạt ngoài trời, vì họ không bị chi phối bởi điện thoại, truyền hình hoặc các công việc nhà. 

Các phát minh hiện đại như điện thoại cầm tay, đồ chơi điện tử bỏ túi, vì vậy, là kẻ thù của các sinh hoạt gia đình.  Nếu bạn muốn khỏi bị chi phối khi sinh hoạt ngoài trời, yêu cầu mọi người tắt xeo-phôn và để các máy móc điện tử ở nhà. 

Một gia đình lành mạnh có xung khắc không?  Thật ra, xung khắc là điều không thể tránh được trong các quan hệ gia đình, nhưng cách họ đối phó với nó ra sao mới là vấn đề.  Các nhà tâm lý nhìn nhận có sự khác biệt về cách giải quyết xung đột giữa gia đình lành mạnh và gia đình bất hoà.   

Khi có chuyện cãi cọ, những người trong gia đình bất hoà thường tìm cách tự vệ, không chịu lắng nghe, không có lòng thông cảm với người khác, và dùng lối nói “lấy người đối diện làm chủ từ” (You Message).  Ví dụ như người chồng nói, “Em làm anh buồn vì em đi làm về trễ”.  Lối nói nầy có ý trách thường làm người nghe tìm cách chống chế bào chữa cho mình, vì vậy mối căng thẳng càng gia tăng. 

Trong khi đó, khi có chuyện bất  đồng, những người thuộc gia đình lành mạnh thường chú tâm vào vấn đề cần giải quyết, sẵn sàng nhận lỗi, biết lắng nghe, dùng lối nói “lấy tôi làm chủ từ” (I Message).  Ví dụ họ nói, “Anh cảm thấy buồn vì 7 giờ rồi mà chưa thấy em về”.  Đây là lối nói bộc lộ cảm xúc của mình, trình bày sự kiện và không cố ý chê trách người khác nên người nghe dễ tiếp nhận hơn. 

Vì sự tôn trọng là một yếu tố thiết yếu trong các quan hệ con người, nên trong đàm thoại các hình thức tấn công đặc tính người khác thường gây nên oán thù.  Chúng ta không lạ gì khi vợ chồng bỏ nhau vì họ thiếu tôn trọng qua cách cư xử và đối thoại.  Khi một đứa con nghịch ngợm, tình hình sẽ không tốt hơn nếu người vợ nói, “Ông dạy nó đi kìa, ông giỏi lắm mà!”; hoặc người chồng nói, “Bà hiền lành lắm, sao mà đẻ con như vậy?” 

Khi có vấn đề, người trong gia đình lành mạnh không vội phản ứng mà họ biết giữ bình tĩnh để tìm lối giải quyết.  Đó là một cách lấy “time-outs”—tạm nghỉ. 

Một bà mẹ trong khi đang làm việc nhận được điện thoại từ trường học yêu cầu tới đón con về, vì nó bị đuổi, lý do là mang dao tới trường.  Phản ứng cấp thời của bà lúc đó là không tin, làm sao chuyện đó xảy ra được bởi nó là một đứa học giỏi.  Nhưng rồi bà cảm thấy tức giận, định bụng khi đến trường sẽ cho con một bạt tai để trừng phạt. 

Thế rồi trên đường lái xe từ sở làm đến trường, đầu óc của bà tỉnh táo hơn, bà suy nghĩ miên man về đứa con của mình.  Đột nhiên, bà nhớ lại các điều nó đã nói với bà gần đây gồm cả chuyện nó và các bạn bị một nhóm học sinh người khác chủng tộc đe dọa.  Lúc đó bà không để ý vì nghĩ rằng chuyện đó rồi cũng qua, nhưng bây giờ điều đó làm cho bà suy nghĩ.  Đây là phương pháp “Tự tranh luận”—đặt mình vào trường hợp của người đối diện để am hiểu họ hơn. 

Khi biết manh mối của câu chuyện, bà có ý nghĩ lạc quan hơn về đứa con và vấn đề mình đang gặp phải.  Bà thấy trước mắt mình có hai lựa chọn: Thứ nhất, la mắng, trừng phạt con vì nó là một đứa hư;  hoặc thứ hai, ôn tồn ngồi nói chuyện với con, để tìm nguyên do, và yêu cầu nhà trường can thiệp. 

Bà đã chọn giải pháp thứ hai.  Kết qủa là, nó đã kể lại sự xung đột giữa hai nhóm học sinh cho bà nghe, nó là đứa yếu thế cần có vũ khí để tự vệ nên đã mang dao tới trường.  Khi nghe hết câu chuyện, tuy là nó vẫn bị đuổi học mấy ngày, bà và nhà trường đã tỏ ra thông cảm hơn và có kế hoạch giải quyết vấn đề để tránh tái phạm về sau. 

Nếu bà đã không có sự điềm tĩnh thì hậu qủa xảy ra sẽ như thế nào? 

Lối giải quyết đó có thể là rất thông thường với nhiều người, nhưng theo khoa tâm lý lý trí Psychology of Mind,  nó dựa trên một lý thuyết chú trọng đến các ưu điểm của cá nhân và gia đình, với niềm tin rằng con người ta nói chung đều có khả năng giải quyết các vấn đề của chính mình, nếu họ biết giữ bình tĩnh và xét vấn đề theo tình lý thông thường.   

Khi có vấn đề, bạn đừng vội phản ứng mà hãy xét xem các ưu điểm của mình trước đã.  Lấy giờ “tạm nghỉ”, tự tranh luận để hiểu người hơn, và ngồi xuống đàm thoại trong ôn hòa với “lối nói dùng tôi làm chủ từ  “.  Bạn sẽ ngạc nhiên vì kết quả tốt hơn là bạn tưởng.-

Trần Hiếu

VỀ MỤC LỤC

Một Nền Nô Lệ Mới, Các Trẻ Em Việt Nam Bị Bắt Hành Nghề Mãi Dâm

 

Savannah, Georgia ngày 1 tháng 3 năm 2008, 

Qúy đọc giả thân mến, đã hơn 7 năm, bắt đầu từ mùa hè năm 2000 đó, tôi vẫn cứ mang trong lòng những nỗi đau mà không biết tỏ cùng ai.  Những nỗi đau đó cứ gặm nhấm tôi, gặm con người, gặm khối óc, gặm cả vào trong giấc ngủ (với những kinh hoàng) và quan trọng hơn hết là gặm cả vào trong con tim của tôi.  Đã có những lúc tôi muốn thét lên, thét lên thật to - nhưng bao nhiêu người lại cản, vì sợ những tiếng thét đó sẽ ảnh hưởng đến đời sống tu trì của tôi - thế là tôi lại dằn lòng đau nhói.   

Dĩ nhiên họ cũng có lý của họ.  Tôi đang là một tu sĩ, (rồi sau này, năm 2004 trở thành Linh Mục) thì ai lại nói tới những chuyện “tầy trời” đó.  Ai sẽ tin tôi đây?  Mà nếu có tin, đôi khi họ còn hỏi ngược lại tôi: “Đã đi tu còn “mò” vào những chỗ đó làm gì?”   

Nhưng bạn thân mến, đến hôm nay thì tôi đã không thể dằn lòng được nữa rồi, tôi phải thét lên – thét lên đến tới những ai muốn nghe những sự thật “kinh hoàng” và “ghê tởm” ấy.  Sự thật của một nền nô lệ mới tại Việt Nam, của các trẻ em người Việt Nam bị BÁN - BẮT và ÉP làm nô lệ tình dục tại các nhà thổ ở Campuchia và Malaysia.

************* 

Trước khi bắt đầu “thét lên những câu chuyện có thật đó, xin cho tôi dài dòng một tí để bạn có thể hiểu những gì xảy ra.   

Chuyện bắt đầu từ năm 1997.  Năm đầu tiên tôi thu xếp kỳ nghỉ hàng năm để làm việc và sống với các trẻ bụi đời và cứ thế đến nay đã 11 năm – mà tôi đã có lần chia sẻ với các bạn trong những câu chuyện của “Một Chuyến Đi.” 

Rồi chuyện lại bắt đầu vào mùa hè năm 2000, tôi trở về Việt Nam để sống với các trẻ em cơ nhỡ, và “tình cờ” trong một bữa ăn, được một người bạn giới thiệu một “phóng viên” sắp sửa đi Camphuchia để tìm hiểu tình hình các trẻ em Việt Nam bị đưa vào các nhà thổ làm nô lệ tính dục.  Thế là tôi, một tu sĩ – năm thứ nhất Thần Học - “tình nguyện” xin được đi theo.  Và bắt đầu từ đó, năm nào tôi cũng trở lại Campuchia.  

Mỗi lần tôi trở về Campuchia, tôi vào vai của một thương gia người Singapor giàu có, chỉ biết nói tiếng Anh (không hề biết tiếng Việt), thuê 4 hay 5 em từ 3 đến 5 ngày và “sống chung” với các em. 

Câu chuyện mà tôi luôn kể để lấy lòng tin của các em về “gia cảnh” của tôi là:  “Tôi đã có vợ, (dĩ nhiên là tôi luôn đeo trên ngón tay một nhẫn cưới giả).  Vợ chồng tôi đang có xích mích và tôi muốn đi chơi cho khuây khoả.  Tôi rất yêu vợ, nên không thể “ăn ở” với người khác, mà chỉ muốn có người “accompany,” và đi chơi vài ngày cho đầu óc được thảnh thơi.”

Để chứng minh “câu chuyện” tôi bịa là sự thật, và cũng là để tôi ÍT bị cám dỗ, tôi luôn tìm những điểm đến của du khách (tourist destinations) hay các bãi biển đông người để dẫn các em đi chơi cả ngày – và tối mịt, khi thân xác đã rã rời, mới quay trở về khách sạn và lăn đùng ra… ngủ! 

Trong những ngày ở chung với các em đó, tôi đã hiểu được các em rất nhiều, hiểu được những nguyên nhân và con đường đưa các em vào cái chỗ “ghê tởm” này; hiểu được tại sao các em muốn thoát ra mà không dám; hiểu được những kinh hãi về thân xác mà các em phải gánh chịu; và hiểu được những bệnh hoạn thú tính của những con người tìm vào chốn này.  Bên cạnh những  nỗi kinh hoàng cả về thân xác lẫn tinh thần do những kẻ ăn chơi gây ra, các em còn phải chịu những trận đòn đến ngất xỉu, những ngày liên tục bị bỏ đói, chỉ có nước mà không có cơm của những tay “đầu gấu” được các tú ông, tú bà thuê để dằn mặt các em khi các em làm gì sai hay không chịu tiếp khách.   

Những gì tôi nghe được tôi sẽ bắt đầu kể hầu qúy đọc giả.  Tôi tin những điều đó là SỰ THẬT vì tôi nào có hỏi các em về những chuyện đó đâu.  Với lại các em có hiểu tôi nói gì đâu.  Tôi nói 10 chữ tiếng Anh, may ra các em hiểu được 1.   Nhưng vì các em không biết là tôi nghe và hiểu được tiếng Việt nên các em “tự do” nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt (và dĩ nhiên tôi còn khuyến khích.)  Và những gì tôi sẽ kể ra sau đây là những CƠN ĐAU và những DẰN VẶT mà các em tự kể cho nhau nghe, để chia xẻ, để cảm thông, và để giúp nhau… TRÁNH nếu có điều tương tự xảy ra.

*************** 

Tôi vẫn biết rằng, sau khi tôi “thét” lên những điều này thì tính mạng tôi có thể sẽ nguy hiểm hơn, ngay cả khi tôi trở về VN, vì những “mắt xích” cổ thụ của “dường dây” buôn bán các em là ở VN, nhưng kệ tôi vẫn phải thét lên – Chỉ nguyện xin cho các em được bình an.  Còn tôi thì đã có … Chúa lo!  

Bạn thân mến, đọc tới đây nếu bạn không muốn biết những sự thật tôi sắp kể, xin đừng đọc tiếp – Còn nếu bạn muốn, xin mời theo tôi, chúng ta đi vào chuyện thứ nhất:  

Chuyện “Tao Không Vô Nhà Thờ Đâu”

(Tên của các em đã được thay đổi để bảo vệ an toàn và danh dự cho các em) 

Để tìm được cái nhà thờ Công Giáo ở đất nước Chùa Vàng – Campuchia này không phải là chuyện dễ.  Mà tìm nhà thờ để làm gì bạn nhỉ?   

Thì bạn vẫn biết đấy, tôi cũng là một Tu Sĩ Công Giáo.  Đã là một tu sĩ thì không có cớ gì tôi bỏ lễ Chủ Nhật được.  Nói thật, bỏ đọc kinh sáng tối thì… đôi khi tôi cũng có, nhưng bỏ lễ Chủ Nhật thì không; không đời nào; không có lý do gì; và không có gì quan trọng hơn Thánh Lễ ngày Chủ Nhật.  Tôi lớn lên đã được gia đình giáo dục thế - Giờ đây là một tu sĩ thì tôi càng TIN vào nền giáo dục đó hơn.   

Thế là chiều thứ 6, tôi và 4 em bé gái (mà tôi thuê) leo lên chiếc Camry và bắt anh tài xế đi tìm nhà thờ.  Sau nhiều lần dừng lại hỏi đường và lạc vào hai cái nhà thờ Tin Lành, thì xe dừng trước cửa một nhà thờ Công Giáo.  Nói là nhà thờ, nhưng thực ra nó còn bé hơn cái nhà nguyện dùng làm lễ hàng ngày của giáo xứ tôi. 

Tôi mở cửa xe, bước ra khỏi cái ghế trước, vươn vai hít thở không khí trong lành và… làm dấu.  Đó cũng là thói quen của tôi - mỗi khi đi ngang qua nhà thờ thì làm dấu.  Bốn cô bé cũng bước ra khỏi xe, vẫn cười nói hồn nhiên.  Mặc kệ các em, cứ để các em tự nhiên.  Tôi đưa mắt tìm xem có tấm bảng nào ghi giờ lễ không.  Chẳng tìm thấy bảng hiệu tiếng Anh, tiếng U gì cả, toàn là tiếng Campuchia, tôi quay lại hỏi người tài xế:  

-         Do you know, what time is Sunday Mass?  (Anh có biết lễ Chủ Nhật mấy giờ không)

-         Eight!  Anh ta đọc một lần qua tấm bảng viết bằng tiếng Campuchia, và trả lời cộc lốc.

-         Thank you! Tôi trả lời.   

Sau đó tôi đứng thả hồn, miên man suy nghĩ và bắt đầu so sánh những ngôi Chùa được đúc bằng vàng và “nhà thờ” của Chúa – Hoá ra Chúa lúc nào cũng nghèo.  Đang miên man, thì tiếng các em gái đã kéo tôi về với thực tại. 

-         Ông này chắc là người có đạo đó.  Tiếng của bé Châu 13 tuổi cất lên.

-         Sao mày biết?   Nga, cô bé 16 tuổi, “với thâm niên” 3 năm làm nô lệ trong nhà thổ - là “chị hai” của nhóm 4 cô gái này, hỏi chen vào.

-         Nếu hỏng có đạo, ổng tìm nhà nhờ làm gì?  Châu trả lời.

-         Coi chừng ngày Chúa Nhật này ổng bắt tụi mình đi với ổng vô nhà thờ đó.  Hoa, cô bé 15 tuổi bình phẩm.

-         Tao hỏng nghĩ vậy đâu.  Đi chơi thì đi, chứ đi nhà thờ thì đi làm gì.  Tao đâu có đạo đâu mà đi.  Dzậy là sáng Chúa Nhựt được ngủ đã rồi.  Nga nói chắc như đinh đóng cột.

-         Hỏng dám đâu.  Hoa phản bác.  Hồi trước giờ ổng đi đâu ổng cũng bắt tụi mình đi theo hết.  Tao nghĩ là Chúa Nhựt này cũng dzậy thôi.

-         Tao bảo đảm là ổng không bắt mình đi nhà thờ.  Châu một lần nữa khẳng định.  Tụi mày không nhớ ban sớm với ban khuya ổng cầu nguyện, ổng bắt tụi mình phải im lặng cho ổng cầu nguyện sao?  Cho nên Chúa Nhựt này ổng đi nhà thờ cầu nguyện, ổng cũng sẽ muốn được im lặng. 

Nghe tới đây là tôi hiểu được các em này không phải là người Công Giáo và cũng chưa bao giờ bước chân vào nhà thờ tham dự Thánh lễ.  Vì nếu đã đi lễ, thì biết chắc là Thánh Lễ đâu có “im lặng để cho ổng cầu nguyện.”  Thế là tôi muốn dẫn các em vào bên trong nhà thờ. 

Vừa bước lên những bậc thềm trước cửa nhà thờ, tôi vừa khoát tay ra hiệu cho các em đi theo tôi.  Các em bỏ dửng câu chuyện và chạy theo tôi.  Nhưng riêng bé Thoa 12 tuổi, mới bị đưa qua từ Việt Nam được gần 1 năm, này giờ vẫn im lặng - giờ lí nhí lên tiếng: 

-         Tao không vô nhà thờ đâu.

-         Trời, giỡn hoài – nhõng nhẽo nữa hả má - “Chị hai” Nga vừa cười vừa chọc.

-         Không, tao không muốn vô nhà thờ.  Vẫn lí nhí nhưng có vẻ cứng rắng hơn, Thoa trả lời.

-         Thôi đi má, tụi con bế má vô.  Châu vừa dứt lời thì cả ba chạy xuống những bậc tam cấp để “bế” Thoa lên.

-         Bỏ tao xuống, tao không vô nhà thờ.  Thoa lớn tiếng.  Tao đã nói là tao không muốn vô trong đó mà.  Tụi mày đi đi, đừng có làm phiền tao.  Kèm theo những câu nói đó là một tràng ngôn ngữ tục tĩu được phóng ra từ miệng của Thoa.

-         Mày mà hỏng vô coi chừng ổng đuổi mày dzề đó.  Đi với ổng xướng vầy, giờ tự nhiên giở chứng không dzô.  Nga nói như dạy đời.

-         Ổng đuổi thì đuổi, tao không dzô là không dzô.  Thoa cứng rắn trả lời. 

Thấy tình hình căng thẳng qúa, tôi giả lơ và nói to:

-         The Church is closed.  Let’s go home!  (nhà thờ đóng cửa rồi, thôi đi về)

Nói xong tôi bước lên xe và kêu các em cùng lên xe.  Vẫn với vẻ mặt “giả nai” như không hiểu các em mới tranh luận điều gì, tôi vừa béo vào mặt bé Thoa vừa hỏi: 

-         Are you ok?  What is going on?  (Em có sao không?  Chuyện gì vậy) 

Nhưng em có hiểu tôi hỏi gì đâu mà trả lời.  Em chỉ nhìn tôi và nhúm miệng cười, tuy gương mặt vẫn còn rất khó chịu và lấm lét với nhiều lo lắng. 

Thế là bắt đầu từ hôm đó tôi quyết tâm tìm cách gợi chuyện, hay vẽ chuyện để cho các em nói với nhau về đề tài… nhà thờ.  Tôi quyết tâm phải biết được cái lý do tại sao Thoa nhất quyết không vào nhà thờ, dù em biết rằng có thể bị tôi đuổi về và không thuê nữa. 

****************** 

Nói tới đây, tôi xin đi ra ngoài câu chuyện một tí để giải thích cho qúy đọc giả biết tại sao các em “thích” đi với tôi.   

Sau hơn 3 năm “làm việc” ở Campuchia, tôi đã phần nào xây dựng được chữ TÍN.  Chữ tín không phải chỉ ở nơi các em, mà còn đến từ các tú ông, tú bà, ngay cả những tay anh chị được cử đi theo dõi tôi và bảo vệ các em, sợ tôi dẫn các em trốn.   

Các tú ông tú bà tin tôi vì tôi … “sòng phẳng” với họ, chưa bao giờ kỳ nèo bớt giá.  Tôi luôn “trả” các em về cho họ đúng giờ.  Tôi luôn trả các em về cho họ trong một trạng thái vui vẻ, không mệt mỏi, và không “sứt mẻ” điều gì. 

Các tay anh chị tin tôi, vì tôi chưa bao giờ làm cho họ phải lo lắng.  Họ chưa bao giờ phải mất công theo dõi tôi.  Vì khi tôi đi chơi với các em, tôi thường vẫn cho họ đi theo.  Họ vừa làm việc của họ, lại vừa được đi chơi thì còn gì xướng bằng.  Không những chỉ được đi chơi miễn phí, các bữa ăn của họ cũng được tôi trả tiền.  Thỉnh thoảng tôi còn thuê phòng ngay đối diện phòng của tôi cho họ ngủ để … canh tôi – tránh cho họ phải vật vờ trước cổng khách sạn theo dõi.  Thế còn gì bằng. 

Các em tin tôi đơn giản là vì các em rất… xướng khi được tôi thuê.  Các em truyền miệng cho nhau về “ông thương gia người Singapor, mỗi khi giận vợ lại tìm người đi chơi chung.  Ông ta chưa bắt ai phải “phục vụ” ổng bao giờ - đã không phải làm những điều dơ dáy đó, lại được ổng cho đi chơi và đôi khi còn mua quần áo mới cho nữa!  Đó là lý do chính tạo sao các em “thích” được tôi thuê và đôi khi còn giành nhau nữa.  Dài dòng ra ngoài lề câu chuyện như vậy cho bạn hiểu, bây giờ chúng ta trở lại câu chuyện nhé.

*********************** 

Sau thêm ba ngày nữa sống với các em thì câu chuyện dẫn đến lý do tại sao Thoa quyết định không vào nhà thờ đã có màn kết của nó. 

Thoa sinh ra và lớn lên trong một gia đình công giáo nghèo tại tỉnh An Giang.  Như những gia đình công giáo và những đứa bé khác sống ở làng quê, em đi lễ mỗi Chủ Nhật; đi học Giáo Lý tuần 2 ngày và siêng năng tham dự lễ ngày thường.  Em đã được học giáo lý, học về Thiên Chúa yêu thương, học về sự hiện diện của Chúa trong thế giới hôm nay.  Và cũng như những đứa trẻ khắc em TIN rằng Thiên Chúa thương em và thương gia đình của em lắm.  Và không dừng lại ở niềm tin đơn giản đó, em cũng bắt đầu biết cầu nguyện; cầu nguyện cho em và cho gia đình em thoát khỏi cái cảnh nghèo nàn; cầu nguyện cho ba em bỏ uống rượu và cầu nguyện xin Chúa che chở em và mẹ em tránh được những trận đòn chí tử mỗi khi ba em say sỉn. 

Và hình như Chúa đã nhận lời em.  Một người thân của má em, sau khi lên thành phố lập nghiệp trở về quê và hứa đưa em lên đó giúp việc nhà, cô sẽ cho em chỗ ăn và chỗ ở, trả em 700 ngàn một tháng, và còn ứng trước cho em 3 tháng tiền lương.  Một số tiền mà gia đình em không bao giờ dám nghĩ tới.  Em mừng thầm trong bụng, em cám ơn Chúa.  Em nhẩm tính, “vậy là em có thể giúp gia đình em thoát khỏi cái nghèo!”  Chỉ cần hai tháng lương của em là đã bằng thu nhập của gia đình em một năm!  Nhưng rồi những nhẩm tính đó cùng với những hy vọng thoát nghèo của em mau chóng tan thành mây khói.   

Thành phố đâu em không thấy, tiền lương đâu em không biết, chỉ thấy mình nằm trong cái “cũi nhốt người” này đã gần một năm.  Những ngày đầu em còn chưa biết chuyện gì sảy ra nên khóc lóc và la hét mỗi khi có… khách.  Và rồi những trận đòn nhừ tử, những ngày được bỏ đói đã dạy em cắn răng làm những điều không thể chấp nhận được trong cái tuổi của em, tuổi 12.   Có những ngày trong vòng 24 tiếng em phải tiếp cả hơn 10 người đàn ông.  

Tuy trong tận cùng của tăm tối cuộc đời đó em vẫn tin Chúa và vẫn cầu nguyện.  Em cầu nguyện xin Chúa đưa em ra khỏi nơi này – nơi quy tụ những con qủy trần gian – nơi địa ngục trần gian.  Em xin Chúa cho em được về với gia đình – cho dù em có đói, em có bị ba đánh đập nhưng vẫn không thể so sánh được với nơi này.   

Nhưng em đã thôi không cầu nguyện cách đây vài tháng.  Em đã quyết định chắc chắn là không có Thiên Chúa nào cả.  Chính vì thế em không cần cầu nguyện.  Em lý giải với bạn bè của em:  “Cho dù có ông Chúa đi chăng nữa, ông ta cũng không nghe lời tao.  Ông ta không thèm để ý tới những lời tao nói.  Ông ta không thương tao, nên tao cũng không thèm ổng….”   

Bạn thân mến, những lời đó đã như lưỡi đòng đâm qua tim tôi.  Tôi là một Linh Mục, cả cuộc đời tôi cố gắng mang mọi người tới Chúa, giúp họ nhận ra Thiên Chúa, giúp họ tin vào Chúa, thế mà giờ đây……..  Thật sự, chính tôi cũng đang phân vân không biết có sự hiện diện của Thiên Chúa không?  Em nói có lý quá, cái lý của một đứa trẻ 12 tuổi đã làm cho tôi phải câm nín và … hoang mang.  Không những em có lý, mà cái lý đó còn có cái tình nữa chứ.  “sao Chúa không thương em, em thương Chúa lắm mà?  Sao Chúa không nghe em, em vẫn nói chuyện với Chúa mà Chúa ơi!” 

Và bạn thân mến, với những lý do đó em đã sẵn sằng bảo vệ cái “luận lý” không có Thiên Chúa của mình bằng cách quyết định không bước vào nhà thờ, cho dù có thể bị tôi đuổi về với các “con qủy” trong cái “điạ ngục trần gian.” 

Chút suy tư:   

Tôi đã đọc ở đâu đó một câu chuyện của một bà mẹ dạy con của mình khi hai người cầu nguyện trước một tượng chúa Kitô Vua đã bị bom đạn tàn phá và bể nát.  Đứa bé hỏi mẹ:  

-         Tại sao mẹ lại cầu nguyện trước tượng Chúa không có tay chân, và mắt cũng như miệng này. 

Và bà mẹ đã đã lời:

-         Vì mẹ đang xin Chúa cho mẹ ơn can đảm để chính mẹ sẽ trở nên con mắt của Chúa, lỗ tai của Chúa, miệng của Chúa, trái tim của Chúa và cánh tay của Chúa.  Mẹ và con, mình sẽ là con mắt của Chúa để NHÌN thế giới với một cái nhìn nhân hậu; là lỗ tai của Chúa để NGHE và CẢM THÔNG những niềm vui cũng như những đau khổ của con người; là miệng của Chúa để AN ỦI những ai cần được ủi an; là trái tim của Chúa để YÊU THƯƠNG những người không ai yêu thương; và là cánh tay của Chúa để NÂNG ĐỠ những người không ai nâng đỡ. 

Bạn thân mến, đời sống đạo đức thánh thiện và những công việc bác ái, không phải là đời sống chỉ dành riêng cho những giám mục, linh mục, hay tu sĩ mà dành cho tất cả mọi người chúng ta. Xin giúp mỗi người chúng ta biết nhận ra “ơn gọi trở nên thánh” của mình, biết ý thức được mình là men cho bột, là muối cho đời, là ánh sáng cho thế gian, là môi miệng, là tay chân, là trái tim của Chúa Giêsu ở trần gian này, để qua đó khắp nơi và mọi người trên trái đất nhận ra được sự hiện diện đích thực của Thiên Chúa; của mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể và ở giữa chúng ta; để nơi nơi vang lên lời chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa là cha chúng ta ở trên Trời.  Amen.

LM. Martino Nguyễn Bá-Thông

Nếu muốn kiểm chứng những câu chuyện này, bạn có thể liên lạc với tôi qua trang web www.hayyeuthuongnhau.org trong đó bạn sẽ có đầy đủ email, số điện thoại và giáo xứ tôi đang phục vụ.    
 

VỀ MỤC LỤC
Cẩm Nang Chỉ Đường

 

Tác phẩm: Cầu Nguyện Cá Nhân: Bí quyết tình yêu và vui sống 

Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy, pss.

Phần thứ ba: Cẩm Nang Chỉ Đường 
 
 
“Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy’’ (Mt.7: 13-14). 

Đường cầu nguyện không phải là xa lộ thênh thang, có khi đúng hơn là một đường mòn trong núi. Nhưng bạn đã tìm được con đường đó. Bạn đừng để bị lạc bạn nhé. Đôi lúc bạn cũng cần đến những điểm mốc, những địa hình địa vật. Gặp ngã ba đường, có khi bạn do dự không biết đi hướng nào. Đừng vội vã cứ đi đại, không đúng thì quay lui. Hãy xem bản đồ, hãy coi la bàn, hay hỏi người địa phương. Mở cẩm nang chỉ đường mà tham khảo, nếu có. Trong đường cầu nguyện, bạn hãy hỏi Phúc Âm, hãy nghe lời Giáo Hội. Bạn hãy xin như các Tông đồ: “Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện’’, bạn sẽ nghe được lời đáp đã vang lên ở các nẻo đường Dothái: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống’’ (Jn.14:6). 
   

một 

Không bao giờ bạn cô đơn

Với bạn, còn có biết bao nhiêu người... 

Khi bạn chấp nhận ở một mình với Chúa trong nguyện cầu và suy niệm, bạn sẽ dần dần khám phá được sự hiệp thông bao la. Thay vì rút vào cô đơn, bạn lại mở ra. Khi sống trong lòng Chúa, bạn cũng sống trong lòng thế giới, vì Thiên Chúa là Tình Yêu Tuyệt Đối và Phổ Quát. Chính Chúa nối liền bạn với hệ thống hiệp thông vô hình với các thánh. 

          Trước hết là các thiên thần. Chính Chúa Giêsu đã nói khi đề cập đến các trẻ nhỏ: “Thiên Thần chúng hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha ở trên trời’’ (Mt.18:10). Thiên thần hằng tỉnh thức chăm sóc từng chút một, bảo vệ, soi sáng, hướng dẫn mỗi người con của Chúa. Nếu bạn muốn có một thí dụ về tình bạn thiêng liêng đó, bạn hãy đọc sách Tobia của Cựu Ước: Thiên thần Raphael đồng hành với Tobia con trên đường tìm bạn đời tương lai và cuối câu chuyện, ngài giải thích nhiệm vụ chuyển đạt những lời khẩn nguyện của Tobia và Sara lên Thiên Chúa (Tb.12:12). Như vậy, bạn đừng quên thiên thần giữ mình của bạn nhé. 

          Tiếp đến là vô vàn các thánh đã được hưởng kiến Nhan Chúa. Họ thuộc đủ mọi dân tộc, mọi giống nòi, mọi quốc gia và ngôn ngữ (Kh.7: 9). Với lời cầu nguyện của bạn, bạn đi vào mối hiệp thông với các ngài: “Anh em đã tới dự hội vui giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời. Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện’’ (Dt.12:23). Bạn hãy đọc hạnh các thánh để được làm quen với các ngài. Có những vị bạn sẽ thích hơn, vì hành trình thiêng liêng của họ, và các ngài sẽ nên bạn đường cho bạn. Đặc biệt, bạn hãy tin tưởng chạy đến với Thánh Cả Giuse, Bạn Thanh Sạch của Đức Mẹ và Cha Nuôi của Chúa Cứu Thế. Ngài vô cùng khôn ngoan và đảm lược, được Thiên Chúa tuyệt đối tín nhiệm. Bạn xem, để cứu dân Người, Thiên Chúa đã thi thố bao nhiêu quyền phép trên Ai-Cập, nhưng khi chính Con của Người bị Hêrôđê mưu toan hãm hại, Ngài để một mình Giuse xoay xở định liệu trên đường lánh nạn trong đêm tối và nơi đất khách quê người. Với Mẹ Maria và Chúa Giêsu thì lời cầu bàu của Thánh Cả còn mạnh thế biết bao. Tôi đã được diễm phúc có nhiều kinh nghiệm cá nhân khi chạy đến cùng Ba Đấng: Giêsu-Maria-Giuse, lòng con yêu mến, xin thương cứu các linh hồn. Giêsu-Maria-Giuse, con xin dâng linh hồn và xác cùng mọi sự trong tay Ba Đấng. Giêsu-Maria-Giuse, xin Ba Đấng giúp con trong giờ hấp hối lâm chung. Giêsu-Maria-Giuse, xin cho con được chết lành bình an trong tay Ba Đấng. 

          Sau nữa là các người đã qua đời, quen gọi là các đẳng linh hồn trong luyện tội. Nhất là khi có những phần tử thân yêu trong gia đình bạn đã qua bờ bên kia sự chết, bạn không thể không giữ liên lạc với họ. Các ngài đang trải qua cuộc thanh luyện để dần dần tiến vào sự hoàn hảo thiên đàng. Lời cầu nguyện của bạn giúp họ tiến tới, như là ly nước cho người đang khát. Sự hiện diện của họ cũng giúp bạn đào sâu lòng khao khát Thiên Chúa. Bạn hãy nhớ đặc biệt các linh hồn mồ côi, nghĩa là những linh hồn không được ai nhớ tới cầu hồn xin lễ cho, dù người thân còn sống của họ có khi còn đầy ra đó! 

          Cuối cùng là tất cả những người thiện chí đang trên đường lữ hành trần thế. Là một phần tử sống động nhỏ bé trong Thân Mình Chúa Kitô, bạn không ngừng cho đi và lãnh nhận một năng lượng thần linh đang lưu chuyển như dòng máu trong tim. Những ai có tâm hồn ngay chính sống trên hành tinh nầy đều đi vào trong sự hiệp thông thiêng liêng ấy. Lời cầu nguyện nối bạn vào mạng lưới Giáo Hội, chẳng khác chi bây giờ người ta nối mạng Minitel hay Internet. Cụ thể là những lời cầu nguyện người ta cầu cho nhau: An ủi và mạnh sức biết bao khi bạn biết được rằng lúc nầy có nhiều người khác đang cầu nguyện cho bạn! Bạn đừng bao giờ quên đóng góp phần bạn vào sợi giây thân ái đó: một ăn khớp với nhiều, hiện tại mở vào vĩnh cửu. 

         Tôi rất cảm động cám ơn Ba Đấng và vui mầng biết ơn tất cả những người thân và con cái đã qui tụ nhau dâng Thánh lễ cầu nguyện cách riêng cho tôi nhân ngày Ngân Khánh Linh Mục của tôi. Trong những ngày đó, các người thân yêu khác ở Việt Nam và Hải ngoại cũng xin lễ, chầu giờ thánh, lần chuỗi và hy sinh cầu nguyện cho tôi. Tôi được bao bọc trong lời cầu nguyện, tình thương và ân sũng. Xin cho tôi được nên lời ngợi ca và dùng ơn Chúa cho nên.

 
 
          Giáo hội Công Giáo là gia đình của bạn

          Mở ra trong suy niệm, bạn cầu nguyện trong Giáo Hội, với Giáo Hội, nhờ Giáo Hội và cho Giáo Hội. Giáo Hội là một Thân Mình bằng xương bằng thịt, với máu huyết và y phục, với một quá khứ chở đầy khốn cùng và vinh quang, một hiện tại mà Giáo hội thế nào thì bạn phải yêu mến Giáo Hội thế ấy, như yêu chính mẹ của bạn, một tương lai hoàn toàn tín thác trong tay Chúa. Chính vì vậy mà tôi cũng muốn nói với bạn những vấn đề bao quanh đời sống cộng đồng Giáo Hội. 

           Mầu nhiệm Thánh Thể 

          Thánh Lễ, nhất là Thánh Lễ Chúa Nhật, nơi cử hành mầu nhiệm đức tin, nơi đại gia đình công giáo qui tụ quanh trung tâm điểm của mình, là suối nguồn và chóp đỉnh tất cả đời sống thiêng liêng của bạn. Cho dù thánh lễ ấy thiếu bầu khí cầu nguyện, thiếu sốt sắng, không huy hoàng đẹp đẽ, cách linh mục cử hành không hợp sở thích của bạn..., bạn hãy đến tham dự trong tinh thần đức tin, để gặp gỡ Chúa Kitô, để lắng nghe Lời Ngài và thông hiệp vào Thánh Thể Ngài, để chia sẻ hiến tế tình yêu ‘’vì vinh danh Chúa và phần rỗi thế gian’’. Và khi chung lòng sát cánh với các tín hữu khác, bạn luôn có thể yêu thương tha nhân như chính mình. Thánh lễ là phương cách tuyệt hảo nuôi dưỡng và canh tân đời sống cầu nguyện cá nhân của bạn. Và ngược lại, thánh lễ cũng cho phép bạn góp phần canh tân cộng đồng mà bạn là thành phần, vì mỗi tín hữu phải là một viên đá sống động xây dựng cộng đồng Giáo Hội.

          Lời cầu nguyện nhóm 

          “Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đó, giữa họ’’ (Mt.18: 19). Nếu bạn đọc Tông Đồ Công Vụ, bạn sẽ ngạc nhiên thấy bầu khí cầu nguyện bao quanh mọi hoạt động của nhóm: “Tất cả một lòng một ý, họ chuyên cần cầu nguyện’’ (Ac.1: 14). Ngày nay cũng thế, các buổi hội họp của người kitô hữu phải được diễn ra trong bầu khí cầu nguyện, đặc biệt là trong cung lòng gia đình. Đẹp đẽ biết bao vợ chồng, cha mẹ bạn cái, anh chị em cùng sống lời mời gọi cầu nguyện!

Đối với những người trẻ, nhóm cầu nguyện cống hiến cơ hội tốt để tiến tới trong đời sống thiêng liêng: sau những phút giây suy niệm thinh lặng cá nhân, là lời cầu nguyện tự phát, chia sẻ lớn tiếng và những thánh ca ca ngợi. Cầu nguyện cá nhân giúp cho cầu nguyện nhóm được phong phú, và ngược lại cầu nguyện nhóm giúp cầu nguyện cá nhân được kiên trì trong suy niệm hằng ngày và theo Chúa Kitô cho đến cùng. Hãy tạo lấy bầu khí mà linh hồn chúng ta cần đến. Bạn đừng ngại tận dụng nhóm cầu nguyện. Nếu tại nơi bạn sống chưa có thì bạn lập nên một nhóm, nhưng bạn đừng quên rằng tất cả tùy thuộc vào mối liên lạc mật thiết của bạn với Chúa. 
 

Tình bạn thiêng liêng

           Có những nhóm cầu nguyện, không những mật thiết với Chúa mà còn mật thiết với nhau, có thể nói với nhau được tất cả. Một tình bạn sâu xa liên kết họ: “Anh hãy tránh xa những đam mê của tuổi trẻ, cố gắng trở nên người công chính, giàu lòng tin và lòng mến, ăn ở thuận hòa cùng những ai kêu cầu Chúa với tấm lòng trong sạch’’ (II Tm.2: 22). Tình bạn thiêng liêng là một món quà vô giá. Nhờ nó, bạn có thể chia sẻ không những các hoạt động bên ngoài, tình cảm, dự tính... mà còn cả mối tương quan của bạn với Chúa. Trong đại dương cảm thông của đời sống cầu nguyện, biết đâu bạn lại không khám phá ra được một ‘’hải đảo hiệp thông’’. Khi bảo chúng ta thương yêu nhau như Ngài thương yêu chúng ta, Chúa Giêsu mở đường vào tình bạn thiêng liêng nầy: “Thầy không còn gọi các con là tôi tớ nữa, mà Thầy gọi các con là bạn hữu của Thầy’’ (Jn.15: 15). 

          Sách Giáo sĩ cũng nói cách tuyệt diệu điều đó: “Một người bạn trung thành là một trợ lực mạnh mẽ, ai tìm được người bạn trung thành là tìm được kho báu. Một người bạn trung thành thật vô giá, không ai đo lường được giá trị của nó. Một người bạn trung thành là dầu thơm cho cuộc sống, chỉ những ai tôn kính Chúa mới tìm được. Ai tôn kính Chúa là những người bạn đích thực, vì người ta thế nào thì bạn của họ thế ấy’’ (Si.6:15-17). Lòng kính trọng Thiên Chúa là nền tảng của lòng kính trọng tha nhân, và mỗi người có thể giúp người kia trưởng thành trong ơn gọi cá nhân của mình cách tự do. 
 
 
         
Hướng dẫn thiêng liêng 

          Hướng dẫn thiêng liêng hay đồng hành thiêng liêng là một hình thức đặc biệt của tình bạn ấy. Hơn là một tình bạn, đó đúng hơn là một tình phụ tử hay mẫu tử. Trong xã hội chúng ta đang sống, nhiều người trẻ cảm thấy thiếu an toàn nội tâm. Giáo Hội cống hiến kho tàng khôn ngoan rất kỳ cựu nầy: những nhà hướng dẫn thiêng liêng cống hiến tốt hơn là những nhà phân tâm. Các kitô hữu đã thủ đắc được một sự trưởng thành thiêng liêng đầy đủ và đã lãnh nhận được ơn biện phân (phán đoán) đều có thể dẫn dắt rất nhiều người trẻ trên con đường hoàn thiện Phúc âm. Vậy bạn hãy cầu xin Chúa ban cho bạn một người hướng dẫn thiêng liêng, và bạn hãy chủ động tìm kiếm. Không phải tuyệt đối không thể không có, nhưng rất cần thiết. Và không nhất thiết phải là một linh mục. Một giáo dân, nam cũng như nữ, một sư huynh, một nữ tu, đều có thể nhận được ơn đó. Đây là một điều khá mới mẻ đối với thói quen bấy lâu nay của chúng ta, vì thường việc linh hướng kèm theo việc xưng tội. Tôi sẽ dành phần phụ lục ở cuối sách để nói thêm về việc hướng dẫn thiêng liêng nầy. 

        Ở đây, tôi không đưa ra “cách sử dụng’’ cho một đồng hành thiêng liêng, mà chỉ là một ít ghi chú:

  • Người ta có thể thỉnh thoảng bàn hỏi với vị hướng dẫn thiêng liêng, hay vào những giai đoạn nào đó của cuộc đời, hoặc muốn được theo dõi đều đặn một thời gian dài; 

  • Người hướng dẫn đích thực là chính Chúa Thánh Thần, chứ không phải là một thứ ‘thầy đạo’ phân phát các mệnh lệnh;  

  • Người hướng dẫn thiêng liêng truyền thông kinh nghiệm của mình bằng sự tỏa chiếu tự nhiên, hơn là bởi sự dạy dỗ hoặc những chỉ thị quyền bính. Chính phẩm chất đời sống của người hướng dẫn giáo dục người thụ hướng.  

  • Người được hướng dẫn phải biết mở rộng lòng với tất cả sự tín nhiệm, đồng thời lãnh lấy trách nhiệm thực thi ý Chúa trong tất cả mọi sự.  

          Hạnh phúc cho bạn, nếu bạn tìm được một người hướng dẫn như thế. Nhưng nếu bạn không tìm được, thì Chúa cũng không bỏ bạn. Những ai ao ước sự thánh thiện sẽ không thiếu Chúa Thánh Thần đâu. Dầu nội tâm của Thánh Linh sẽ dạy dỗ bạn tất cả, như Ngài đã làm cho bao vị thánh: “Phần anh em, dầu mà anh em đã lãnh nhận từ Đức Kitô ở lại trong anh em, và anh em chẳng cần ai dạy dỗ nữa. Nhưng vì dầu của Người dạy dỗ anh em mọi sự -mà dầu ấy dạy sự thật chứ không phải sự dối trá-, anh em hãy ở lại trong Người’’ (1Ga.2: 27). 

 

VỀ MỤC LỤC
Bệnh Lao-Kháng-Nhiều-Thuốc

 

Ngày 26 tháng 2 năm 2008 vừa qua, Cơ quan Y Tế Thế Giới (WHO) đã báo động là tình trạng bệnh lao kháng với nhiều thuốc tại các quốc gia đã lên rất cao, khoảng nửa triệu trường hợp mỗi năm.

Theo chuyên gia Y tế Cộng đồng Mark Harrington: “Lao kháng nhiều thuốc là mối đe dọa lớn cho mọi người. Khác với bệnh HIV trong đó bệnh lây lan qua một đường riêng biệt, lao là mối đe dọa cho mọi người khi tiếp xúc lâu dài với bệnh nhân như ngồi chung trên máy bay, xe lửa.”

Mario Raviglione, Giám Đốc chương trình Ngăn Chặn Lao của WHO báo động: “Lao kháng nhiều thuốc cần một sự can thiệp mạnh mẽ. Nếu các quốc gia không cương quyết đối phó, chúng ta sẽ thua trận chiến này”. 

Thế nào là “bệnh lao-kháng-nhiều-thuốc”? 

Bình thường, bệnh lao có thể chữa hết với 4 loại thuốc căn bản hàng đầu. Khi các thuốc này bị lạm dụng hoặc dùng không đúng chỉ định, vi khuẩn lao trở nên quen nhờn với thuốc.

Năm 2006, Cơ quan Y tế Thế  giới định nghĩa lao- kháng- nhiều- thuốc (MDR-TB Multidrug-Resistant -TB), là bệnh lao trong đó vi khuẩn chống lại được với hầu hết các thuốc trị lao hàng đầu, đặc biệt với hai loại công hiệu nhất là isoniazid và rifampicin

Ở mức độ trầm trọng hơn, lao-cực-kháng-thuốc (XDR-TB -Extensively Drug-Resistant-TB) là lao-kháng-nhiều-thuốc cộng thêm chống lại cả với một trong các thuốc uống nhóm fluoroquinolone và ít nhất là với một trong ba loại thuốc chích hàng thứ nhì là capreomycin, kanamycin và amikacin. 

Nguyên nhân gây ra lao kháng thuốc 

Sự kháng nhờn với thuốc xảy ra khi:

-         Bệnh nhân không dùng thuốc theo đúng liều lượng và thời gian do bác sĩ chỉ định

-         Bác sĩ không cho đúng thuốc với tình trạng bệnh.

-         Bác sĩ không cho thuốc đủ mạnh và  thời gian dùng thuốc quá ngắn

-         Cơ thể bệnh nhân không hấp thụ được thuốc

-         Có tương tác giữa các loại thuốc

-         Khi thuốc có ít công hiệu trị liệu

Trong các trường hợp này, thuốc chỉ khống chế một phần sự tăng trưởng của vi khuẩn và tạo ra các vi khuẩn kháng với thuốc.Chúng tăng sinh rất mau và ngự trị toàn bộ cơ thể 

Ngoài ra, kháng thuốc có thể vì:

-         Cung cấp thuốc bị gián đoạn

-         Không kiểm soát được sự lây lan bệnh

-         Không có phương tiện, kế hoạch để xác nhận và điều trị lao kháng thuốc.

-         Bệnh tái phát sau khi đã được chữa lao trong quá khứ

-         Tiếp xúc, sống chung với bệnh nhân bị lao kháng thuốc. 

Sự lây lan của lao-kháng-thuốc

Lây lan của lao kháng nhiều thuốc cũng tương tự như lây lan bệnh lao bình thường.

Khi bệnh nhân ho, hắt hơi, cười nói hoặc ca hát, vi khuẩn lao từ phổi phân tán trong không khí và sống ở đó trong nhiều giờ. Hít thở không khí này sẽ bị lây bệnh.

Lao không lây lan qua bắt tay, chung nhau món ăn nước uống, đụng chạm vào chăn  mùng quần áo, bàn cầu vệ sinh, chung nhau bàn chải đánh răng.

Rủi ro lây lan tăng khi:

- Có nhiều bệnh nhân tại cùng địa điểm

- Bệnh ở giai đoạn trầm trọng

- Thời gian tiếp xúc với bệnh nhân lâu

- Không gian nơi tiếp xúc chật hẹp

- Không khí trong phòng bệnh nhân không thông thoáng

- Cùng khối lượng không khí trong phòng luân lưu ra vào liên tục.

- Khả năng đề kháng của người tiếp xúc yếu, chẳng hạn với bệnh nhân suy miễn dịch vì HIV.

- Không khử trùng các vật dụng và dụng cụ y tế.

Lao kháng thuốc rất hay lây, điều trị cực kỳ khó khăn và tốn kém và tỷ lệ tử vong lại rất cao. 

Tại sao lao kháng thuốc lại nguy hiểm

Sự xuất hiện của lao kháng nhiều thuốc là mối đe dọa lớn cho sức khỏe dân chúng. Lý do là bệnh lao điều trị được bằng các dược phẩm hiện có sẽ được thay thế bới lao với vi khuẩn kháng cự với nhiều dược phẩm. Sự điều trị các lao này khó khăn giới hạn hơn, chẳng khác chi trị lao vào thời điểm chưa có thuốc kháng sinh cách đây trên nửa thế kỷ.

Hậu quả xấu sẽ rất lớn đối với nền kinh tế quốc gia, nếp sống gia đình.Vì vi khuẩn lao cứng đấu với hầu hết các thuốc trị lao, người bệnh không được điều trị hữu hiệu và bệnh tình trở nên trầm trọng hơn.

Làm sao để khỏi trở thành lao kháng thuốc

Điều quan trọng nhất là phải uống thuốc trị lao đúng như chỉ định của bác sĩ, không bỏ sót một liều nào và không ngưng thuốc quá sớm.

Nếu có tác dụng phụ hoặc trở ngại khi uống thuốc, nên cho bác sĩ hoặc điều dưỡng viên hay ngay để điều chỉnh thuốc.

Lao kháng thuốc có thể chữa được không?

Lao kháng nhiều thuốc có thể điều trị được tuy nhiên sự điều trị khó khăn hơn, cần các nhà chuyên môn cao, khoa xét nghiệm tốt để thử nhạy cảm thuốc và cần có tất cả các nhóm thuốc để lựa chọn. Thời gian điều trị có thể kéo dài tới hai năm và giá thành của thuốc đắt gấp 100 lần thuốc trị lao không kháng. Sự thành công tùy thuộc ở mức độ kháng thuốc của vi khuẩn, bệnh nặng hay nhẹ, sức đề kháng của người bệnh và sự tuân thủ của bệnh nhân.

Đối phó với lao-kháng-nhiều-thuốc 

Lao kháng nhiều thuốc là một đe dọa trầm trọng cho sức khỏe dân chúng toàn cầu.

Ý thức được vấn đề, Cơ quan Y tế Thế giới đã hoạch định một kế hoạch quy mô để đối phó. Sự thành công của kế hoạch tùy thuộc vào sự hợp tác của các quốc gia thành viên cũng như khả năng tài chánh. Trong năm 2008,WHO dự trù cần một ngân khoản là 4.8 tỷ mỹ kim để kiểm soát bệnh lao tại các quốc gia nghèo khó, trong đó 1 tỷ dành cho lao kháng nhiều thuốc. Hiện nay còn thiếu 2.5 tỷ mỹ kim.

Riêng tại Việt Nam, lao kháng thuốc đang là vấn đề nan giải vì theo WHO, tỷ lệ lao kháng thuốc tại Sài Gòn nhiều gấp 4 lần tỷ lệ trung bình trên thế giới và gấp 3 lần so với Hoa Kỳ.

Việt nam còn tình trạng thiếu thuốc đặc trị cho lao kháng nhiều thuốc.  Bệnh nhân lao bình thường được chữa miễn phí, nhưng khi bị lao kháng thuốc thì họ phải tự túc, tìm mua thuốc với giá thành rất cao, quá khả năng tài chánh của người bệnh.

Ngoài ra, các phương thức phòng chống bệnh nơi đây cũng chưa được tận lực phổ biến, áp dụng rộng rãi cho nên số bệnh nhân lao các loại có tỷ lệ khá cao.

Uu tư hàng đầu là làm sao tránh được sự lây lan bệnh, như ý kiến của một cư dân trong nước:

“...Chiều tối nay con chở cô Ngọc đến thăm em Thi. Trong căn phòng nhỏ có tất cả 3 bệnh nhân, đều là trường hợp bị lao kháng thuốc. Con thấy những người thân nuôi bệnh cứ ngồi chung giường gần gũi với bệnh nhân, họ trò chuyện khá thoải mái, chỉ đeo khẩu trang rất mỏng hoặc có khi không đeo khẩu trang, thật nguy hiểm và đáng lo ngại cho họ!

Em Thi có Ba của em lên trông nom từ trưa nay, vì thương con nên cứ nằng nặc ở lại bệnh viện vài hôm mặc dù Thi cố thuyết phục Ba về nghỉ tại ký túc xá Trường Y Dược cùng các bạn nam sinh viên thân quen của em và thỉnh thoảng vô thăm cũng được. Phòng bệnh chật hẹp và không khí trong bệnh viện khá ngột ngạt nên sẽ khó khăn cho Thi trong thời gian "làm quen" với môi trường mới này”. 

Vì vậy, việc cần làm ngay là áp dụng các phương thức ít tốn kém, sẵn có để phòng ngừa lây lan bệnh lao kháng nhiều thuốc.

- Dân chúng cần được hướng dẫn các kiến thức căn bản về cách thức lây truyền của vi khuẩn gây bệnh trong không khí.

- Người thăm viếng chăm sóc cần được nhắc nhở đề phòng khi hít thở chung môi trường với bệnh nhân.

- Nên mang khẩu trang đặc biệt hoặc một miếng vải khá dày đủ sức ngăn chặn vi khuẩn xâm nhập mũi, miệng khi tiếp xúc với bệnh nhân.  

- Phòng ốc cho bệnh nhân lao kháng thuốc cần được thông thoáng.

- Nên có một nơi riêng biệt để bệnh nhân tiếp xúc với thân nhân bạn bè tới thăm.

- Giúp đỡ về đời sống để bệnh nhân lao kháng nhiều thuốc có thể an tâm tiếp tục điều trị nan bệnh trong thời gian lâu dài và giới hạn sự chung đụng của họ với quần chúng.

- Trực tiếp theo dõi việc uống thuốc của bệnh nhân để tránh tự ngưng thuốc, gây ra sự đề kháng.

- Người nghi bị nhiễm lao các loại cần được nhắc nhở, khuyến khích tới bác sĩ, bệnh viện để thử lao trên da và thử đàm tìm vi khuẩn lao. Bệnh cần được xác đinh sớm. và áp dụng trị liệu ngay.

Theo các chuyên gia dịch tễ, sự xuất hiện của lao-cực-kháng-thuốc và lao-kháng-nhiều-thuốc là dấu hiệu của sự yếu kém trong việc quản lý điều trị và lơ là, thiếu thành tâm khi áp dụng các chương trình phòng chống, kiểm soát bệnh lao.

Tiến sĩ Y Khoa Nguyễn Ý-Đức, Texas-Hoa Kỳ.

VỀ MỤC LỤC
CHẢ VÀ NEM, Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

Gã xin bắt đầu mẩu chuyện phiếm hôm nay bằng cách tìm hiểu về nguồn gốc của Táo Quân.

Trước hết là bên Tàu : Người Trung Hoa có một tập tục rất xa xưa, đó là cứ đến mùa hạ, thì tổ chức lễ tế thần Táo. Chung quanh sự kiện này, có rất nhiều giả thuyết và truyền thuyết được lưu hành trong dân gian.

Theo Châu Lễ, Táo Quân tên thật là Chúc Dung.

Sách Hoài Nam Tử lại chép vua Hoàng Đế là người đầu tiên đặt ra việc nấu nướng, đến khi mất hóa thành Táo Quân.

Ngũ Kinh Di Nghĩa lại chép : Thần Táo tên là Tô Cát Lợi.

Theo sách Dũ Dương tạp trở thì Thần Táo tên là Ổi, có vẻ mặt xinh đẹp như con gái.

Tiếp đến là bên ta : Theo một truyền thuyết, thì hai vợ chồng nhà nọ rất nghèo, phải phiêu bạt mỗi người một nơi. Về sau, người vợ lấy chồng khác. Một hôm có người ăn mày đến xin sự bố thí. Khi người đàn bà đem cơm gạo ra cho, thì mới hay người hành khất ấy chính là chồng cũ của mình.

Sợ người chồng sau biết được, người vợ liền đem dấu vào ổ rơm. Bất ngờ, người chồng sau lại dùng ổ rơm để nướng con thú vừa  mới săn được. Người chồng trước sợ chui ra sẽ làm cho người vợ xấu hổ với người chồng sau, liền can tâm chịu chết thiêu.

Người vợ quá đỗi khổ đau, bèn nhảy vào đống lửa mà chết theo chồng. Người chồng sau thấy vậy quá thương vợ, cũng nhảy vào cùng chịu chết luôn.

Linh hồn của ba người này được Thượng Đế thưởng công, truyền cho làm thần Táo. Vì thế, trong ca dao Việt Nam mới có câu :

- Thế gian một vợ một chồng,

  Nào như vua bếp, hai ông một bà.

Từ câu chuyện trên, gã rút ra được hai điểm son đáng suy gẫm, đó là địa vị của chị đờn bà trong xã hội và sự chung thủy trong tình yêu vợ chồng. Hai điểm son nay thật là quí hiếm, nếu không phát huy thì sẽ dần dần bị mai một.

Về địa vị của chị đờn bà trong xã hội, gã nhận thấy từ đông sang tây, cũng như từ cổ chí kim, hầu như cả và thiên hạ đều mang lấy một quan niệm na  ná giống nhau, đó là trọng nam khinh nữ.

Sách Sáng Thế ký của Kitô giáo viết rằng : Thiên Chúa đã dựng nên Adong, tức là người đờn ông đầu tiên, từ bùn đất, rồi phú bẩm cho một sinh khí để ông được sống động.

Thấy ông cô đơn vò võ một mình, Thiên Chúa động lòng trắc ẩn, bèn dựng nên cho ông Eva, tức là người đờn bà đầu tiên, từ nửa chiếc xương sườn của ông. Thoạt nhìn thấy Eva, cặp mắt Adong đã sáng lên niềm vui, ông hớn hở nói :

- Này đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi.

Chẳng biết có phải vì Adong được dựng nên trước, còn Eva được dựng nên sau, cũng chẳng biết có phải vì Eva được dựng nên chỉ bằng một nửa chiếc xương sườn của Adong hay không mà trải qua dòng thời gian, đờn ông vẫn được trọng kính và trọng dụng hơn đờn bà, mặc dù Giáo hội đã ghi công đầu trong việc giải phóng và nâng cao địa vị của người phụ nữ.

Ngay như thánh Phaolô cũng đã viết :

- Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như phục tùng Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh.

Trước khí thế đấu tranh đòi bình quyền và bình đẳng giữa nam và nữ, trong những năm gần đây ở bên Tây cũng như ở bên Mỹ đã dấy lên một phong trào đòi cho phụ nữ, ít nữa là các…ma sơ, được làm cha, làm linh mục !

Còn ở Việt Nam, lác đác trên báo Công Giáo và Dân Tộc gã cũng đã thấy xuất hiện một vài bài viết, đại khái các sơ than thở về thân phận hẩm hiu của mình và mong sao được các đấng các bậc trong Hội Thánh lưu ý, nâng đỡ và trân trọng hơn một tí.

Đồng thời, gã cũng thấy xuất hiện một vài bài viết, đại khái so sánh địa vị “ông bà cố của cha” với “ông bà cố của sơ”, để rồi nghiệm ra rằng ông bà cố của cha nặng ký hơn nhiều vì được bàn dân thiên hạ kính trọng. Còn ông bà cố của sơ cũng được kính trọng đấy,  nhưng còn bị lép vế nhiều bề, cứ y như ngọc bị đá đè vậy !

Bên tây phương, thân phận chị đờn bà thật rẻ rúng, họ bị liệt vào hàng nô lệ, bị coi như một phương tiện cho cánh đờn ông con giai mua vui, hay bị đồng hóa như một đồ vật để đổi chác.

Khi một bé gái mở mắt chào đời, thì ông bố là người quyết đình sự tồn vong của nó. Ông muốn nó sống thì nó được sống. Ông muốn nó chết thì nó phải chết.

Còn bên đông phương, thân phận chị đờn bà cũng chẳng sáng sủa gì hơn. Nền luân lý Khổng Mạnh đã thống trị toàn bộ những sinh hoạt xã hội.

Thực vậy, người ta coi trọng con giai hơn con gái :

- Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Nghĩa là sinh một cậu con giai thì được kể như là có, chứ còn sinh mười cô con gái, thì vẫn bị kể như là không.

Rồi ba chữ tòng là như ba sợi dây bền chắc đã cột chặt người con gái cũng như người đờn bà vào với gia đình và chồng con :

- Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Ở nhà thì phục tùng cha. Đi lấy chồng thì phục tùng chồng. Chồng chết thì phục tùng con.

Thành thử, bà vợ chỉ còn là một chiếc bóng mờ nhạt trong gia đình cũng như ngoài xã hội  :

- Phu xướng phụ tùy. Chồng phán điều chi, thì vợ lập tức phải nghe theo.

Từ đó, ông chồng dễ mang lấy cung cách xử sự theo kiểu “chồng chúa vợ tôi”, coi bà vợ như một đầy tớ không công, hay như một chiếc máy để đẻ con cho mình không hơn không kém.

Có những bà vợ đã hy sinh trót cả tuổi thanh xuân, tần tảo nuôi ông chồng ăn học. Thế nhưng khi vừa mới đỗ đạt, ông chồng bội bạc bèn nhảy tót sang thuyền khác, kiếm lấy một cô vợ vừa trẻ đẹp, vừa giàu sang, vừa con nhà quan để làm bàn đạp tiến lên trên đường danh vọng. Chỉ tội nghiệp cho bà vợ già, âm thầm và lầm lũi khi tuổi đời xế bóng về chiều.

Tại một số nơi như Ấn Độ người ta còn thi hành một tập tục dã man khác, đó là khi ông chồng qua đời, thì bà vợ cũng phải chết để theo hầu ông chồng nơi chín suối.

Nhất là trong lãnh vực tình cảm, số phận của bà vợ thật là bẽ bàng và cay đắng. Hai chữ “tiết hạnh” được dành riêng cho người phụ nữ :

- Trai thời trung hiếu làm đầu,

  Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.

Cũng vì hai chữ tiết hạnh này, khi ông chồng còn sống, bà vợ chẳng bao giờ được phép tơ tưởng linh tinh đã đành, mà ngay cả khi ông chồng đã phiêu diêu miền cực lạc, bà vợ cũng phải ở vậy thờ chồng và nuôi con. Chứ mà bước thêm một bước nữa, ắt sẽ không thoát khỏi búa rìu và sự cười chê của dư luận.

Trong khi đó, nền luân lý ấy lại tỏ ra lỏng lẻo và dễ dãi đối với cánh đờn ông con giai :

- Trai năm thê bảy thiếp,

  Gái chính chuyên chỉ có một chồng.

Anh con trai tha hồ mà vung vít. Năm thê bảy thiếp là hệ biên chế, hệ trong luồng và hệ chính ngạch, có cưới có xin hẳn hoi. Còn những cuộc tình qua đường, thầm lén vụng trộm thì chỉ mình ông trời mới biết.

Ca dao cũng đã từng diễn tả :

- Dầu chàng năm thiếp bảy thê,

  Thì chàng chẳng bỏ gái…sề này đâu.

Theo sử sách còn ghi lại thì một con người chững chạc và đáng kính như Nguyễn Công Trứ lại tỏ ra sành sỏi và phong lưu hết ý. Khi lên chùa, ông cũng dắt theo mấy cô hầu non để cùng “đăng sơn ngoạn cảnh” và ông đã diễu cợt :

- Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì,

  Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.

Với một sinh lực dồi dào và cường tráng, năm 73 tuổi ông vẫn còn cưới thêm nàng hầu và có tất cả 14 bà vợ.

Đêm tân hôn, giai nhân hỏi ông bao nhiêu tuổi, (tân nhân dục vấn lang niên kỷ), ông đã chẳng ngần ngại đáp :

- Ngũ thập niên tiền nhị thập tam, nghĩa là năm mươi năm về trước tôi mới 23 tuổi.

Anh đờn ông con giai được thả lỏng như vậy, thì đâu có lỗi phạm gì khi chán cơm, mò đi ăn phở. Vì thế, ngoại tình dường như chỉ là một tội được dành riêng cho chị đờn bà con gái :

- Không chồng mà chửa mới ngoan,

  Có chồng mà chửa thế gian thiếu gì.

Nơi người Do Thái, gã cũng thấy như vậy. Đã phạm tội ngoại tình, thì đương nhiên phải có cả nam lẫn nữ. Thế mà khi bắt quả tang những kẻ phạm tội này, bọn Biệt phái chỉ dẫn đến Chúa Giêsu mỗi một cô nàng để Ngài xét xử, còn cậu chàng thì được làm ngơ cho cao chạy xa bay.

Riêng ông chồng, nếu không ưng vợ mình ở điểm nào và muốn rãy bỏ, thì chỉ cần đưa cho bà một tờ giấy chứng nhận thế là xong, đường ai người ấy đi.

Trong khi ông chồng nhởn nhơ và phè phỡn với những cuộc tình trong luồng cũng như ngoài luồng, thì bà vợ sẽ lãnh đủ nếu lỡ dại đính dấp vào tội danh này.

Thực vậy, nơi người Do Thái cũng như nơi người Hồi giáo, bà vợ ngoại tình sẽ bị ném đá cho chết. Còn nơi người Việt Nam, thì ngày xưa có những nơi đã áp dụng những hình phạt cực kỳ nghiêm khắc và nặng nề như cạo đầu bôi vôi, cột bè trôi sông…cốt để cho mà tởm, nhưng đồng thời cũng để bảo vệ đặc quyền đặc lợi của cánh đờn ông con giai.

Tuy nhiên, ngày hay hoàn cảnh đã đổi thay và thế gian bỗng dưng đã ra khác. Những tháng năm về trước, khí thế đấu tranh và giải phóng cho thân phận người phụ nữ bốc lên bừng bừng. Người ta đòi hỏi cho đờn bà con gái phải được bình đẳng và bình quyền với đờn ông con giai.

Người phụ nữ dần dần giã từ vai trò “nội tướng”, bầu bạn với nồi niêu xoong chảo, chổi cùn rế rách, mà nhảy bổ ra ngoài xã hội, nắm giữ những vai trò quan trọng và thu nhập cũng chẳng kém gì phe mày râu. Có người làm tới thủ tướng, bộ trưởng, nghị sĩ, giám đốc…Một khi đã có tài khoản riêng, không còn bị lệ thuộc vào vấn đề kinh tế và tài chánh, người phụ nữ vững bước trên đôi chân của mình.

Thế là họ muốn được bình đẳng về mọi phương diện. Sự gì anh đờn ông con giai làm được, thì chị đờn bà con gái cũng sẽ làm được.

Ngày xưa anh đờn ông con giai được ô dù Khổng Mạnh bao che, nên chẳng tội vạ gì mỗi khi vung vít tình cảm, còn chị đờn bà con gái nào lỡ dại thì bị lãnh đủ.

Còn ngày nay thì khác, chị đờn bà  được pháp luật  che chắn và bảo vệ. Nếu chẳng may lôi nhau ra ba tòa quan lớn vì chuyện cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, thì ông chồng hãy liệu hồn đấy, phải đề cao cảnh giác, bằng không có khi mất cả chì lẫn chài, mất cả tình lẫn tiền.

Cũng vì sự đấu tranh đòi bình đẳng ấy mà ngày nay, tội ngoại tình không còn là độc quyền của phái nam hay phái nữ, mà dường như nó liên tục được phát triển ở cả hai giới, đúng như các cụ ta ngày xưa đã diễn tả :

- Ông ăn chả, bà ăn nem.

Chả là thức ăn bằng thịt, cá, tôm hay cua, được quết nhuyễn, rồi đem lên hấp, chiên hay nướng. Còn nem là thức ăn bằng thịt, được quết nhuyễn trộn với thính và gói chặt cho chua. Nói chung cả hai đều là những món đặc sản cao cấp và trong  những bữa tiệc lớn, thì phải xuất hiện đủ bộ sậu tứ quái : giò, nem, ninh, mọc. Còn trong những yến tiệc của hàng vương đế, ít nhất cũng phải có nem công, chả phượng…

Với câu tục ngữ “ông ăn chả, bà ăn nem”, người ta muốn diễn tả việc vợ chồng phân bì nhau, để rồi tranh nhau làm điều quấy quá, xằng bậy như cờ bạc, trai gái với người khác.

Chẳng hạn ông binh sập xám, thì bà cũng phải bài cào tứ sắc. Ông có bồ nhí, thì bà cũng phải có kép nhỏ.

Trong một bài viết, tác giả Chu Tất Tiến đã báo cáo về những cuộc tình còm ngoài luồng tại Hoa Kỳ như sau :

Có những điếu mà ta nghe thấy thì giật mình, vì cứ theo trí tưởng tượng thì không đến nỗi như vậy. Theo một thống kê ở xứ Mỹ năm 1993, thì có tới 25% đờn ông, tức là 19 triệu người chồng ngoại tình và 17% đờn bà, tức là 12 triệu người vợ có tình ái lăng nhăng với người không phải là chồng mình.

Chuyện anh đờn ông ăn chả hay ngoại tình là chuyện thường ngày ở huyện, bởi vì bổn tính của anh ta vốn háo sắc, nên hễ thấy bóng hồng nào xinh xinh là chạy theo liền tù tì. Anh đờn ông, nhiều phen chẳng hề nhìn thấy cái nết, mà chỉ nhìn thấy cái đẹp của chị đờn bà, thành thử thay vì cái nết đánh chết cái đẹp, thì cái đẹp đã đè bẹp cái nết.

Người ta đã làm một cuộc trắc nghiệm như sau :

Một cụ già đứng bên đường vẫy xe xin đi quá giang, thì hầu như bác tài nào cũng không nhìn thấy và có nhìn thấy chăng nữa, cũng vẫn chịu khó lờ tít. Thế nhưng một cô gái trẻ, nhất là lại ăn mặc mát mẻ một tí mà đứng bên vệ đường vẫy xe đi nhờ, thì hầu như bác tài nào cũng rất sốt sắng…làm phước ! Quả thật, tình yêu đã đi vào anh đờn ông con giai bắt đầu bằng đôi mắt.

Vì thế, ở đây gã xin miễn bàn đến việc ông ăn chả, mà chỉ nói tới việc bà ăn nem mà thôi.

Ngoại trừ một số rất ít chị đờn bà có tính lẳng lơ và ham vui và thích của lạ, nên mới kết mô đen với một anh kép nhỏ. Chứ phần đông cánh phụ nữ, khi đã yêu thì đều yêu bằng tất cả trái tim của mình. Vì thế, tình yêu của họ thường bền vững và chung thủy :

- Yêu anh đến chết vẫn còn yêu anh.

Nếu chẳng may tình yêu của họ bị phản bội hay bị chia sớt, thì cơn ghen lập tức nhập vào lục phủ ngũ tạng, khiến họ ăn không ngon và ngủ không yên, cho tới khi nào dành lại được địa vị tuyệt đối trong tình yêu hay là đã dạy cho tình địch một bài học đích đáng :

- Ớt nào là ớt chẳng cay,

  Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.

  Vôi nào là vôi chẳng nồng,

  Gái nào là gái có chồng chẳng ghen.

Hay như Thúy Kiều đã trả lời Hoạn Thư :

- Rằng tôi chút phận đàn bà,

  Ghen tương thì cũng người ta thường tình.

Vậy đâu là lý do khiến bà vợ đi ăn nem hay chia sẻ tình yêu với một kẻ thứ ba ?

Lý do thứ nhất là sự bất mãn về ông chồng của mình.

Ông chồng ấy có thể là một người độc tài, độc đoán và đôi lúc cũng độc ác nữa, khiến cho bà vợ chịu hết nổi. Tức nước thì phải vỡ bờ. Trong hoàn cảnh ấy, nếu gặp được một anh đờn ông ga lăng, biết chiều chuộng và mềm mỏng, thì từ chỗ tình bạn để gửi gấm tâm sự đến chỗ tình yêu, cách nhau chẳng bao xa và rồi bà đã ăn nem lúc nào cũng chẳng hay.

Ông chồng ấy có thể là người mang trong mình dòng máu đào hoa. Nay cô này, mai cô khác. Hết cà phê đèn mờ đến quán xá bia ôm. Cứ như vậy thì bà vợ chịu làm sao cho nổi. Nếu không suy nghĩ chín chắn, hẳn rằng bà ấy sẽ trả thù đời bằng cách đi ăn nem cho bõ ghét.

Ông chồng ấy có thể là người rất yêu vợ, nhưng lại không kiếm ra tiền. Vì thế, trước những nhu cầu tiêu dùng của bản thân và gia đình, bà vợ cảm thấy như điên cái đầu. Giữa lúc đen tối ấy mà xuất hiện một “quới nhân” phò trợ, sẵn sàng chi tiền để giúp đỡ, bà vợ sẽ mừng húm như vớ được chiếc phao cứu mạng. Rồi từ nghĩa dẫn đến tình và bà vợ sẽ sẵn sàng ăn nem một cách êm ru bà rù, như một hành động đền ơn đáp nghĩa. Ấy là chưa kể những anh đờn ông hắc ám mang ý đồ đen tối, đã tính toán cộng trừ nhân chia khi bỏ tiền ra giúp đỡ.

Ông chồng ấy có thể là một người rất gắn bó với gia đình, nhưng cũng lại rất say mê với một lý tưởng, hay tất bật trong công việc làm ăn, nên không còn thời giờ dành cho vợ cho con. Bà vợ cần một trái tim để chia sẻ, cần một bờ vai để tựa đầu. Chờ miết mà không được, đợi mãi mà không thấy, thì đành phải đi tìm một trái tim khác để chia sẻ và một bờ vai khác để tựa đầu. Và thế là rơi tõm vào cảnh ăn nem.

Dĩ nhiên ông chồng ấy còn có thể mắc phải những sai lỗi khác nữa, có những sai lỗi công khai, có những sai lỗi thầm kín, nhưng bằng đó mà thôi cũng đã đủ để kiểm điểm lại quãng đời làm chồng của mình.

Lý do thứ hai là những hoàn cảnh bên ngoài. Những hoàn cảnh ấy nhiều lúc đã ảnh hưởng sâu đậm và làm cho chị đờn bà bị lung lạc và chao đảo.

Chẳng hạn như bạn bè xấu. Hễ tụ tập lại với nhau, nếu không nói xấu người vắng mặt, thì cũng lại bàn về chuyện…ấy, chuyện ăn nem và rất lấy làm hãnh diện như muốn khoe thành tích vậy. Thậm chí đôi lúc còn rủ rê nhau nhập hội, nhập băng, làm thử, chí ít cũng một lần, cho biết…mùi đời.

Chẳng hạn như những phương tiện thông tin hiện đại. Nào “chát”, nào “meo”, nào “mô bai”, tha hồ mà cởi mở cõi lòng, tha hồ mà tâm sự bầu cua tôm cá, tha hồ mà hò hẹn một cách bí mật chẳng ai biết đến.

Những hoàn cảnh ấy là như “ma dẫn lối, quỉ đưa đường”, hay nói cách khác, những hoàn cảnh ấy là những thế lực ngầm thúc đẩy chị vợ đi tới chỗ…ăn nem.

Để kết thúc, gã xin đưa ra hai mẫu gương nói về sự thành công trong đời sống gia đình cũng như trong đời sống vợ chồng.

Mẫu gương thứ nhất là ông bà Curie.

Ông đã phải vất vả đeo đuổi và tấn công suốt ba năm mới dành được tình yêu của bà. Bí quyết sống của họ, đó là :

- Yêu nhau trong sự hợp tác.

Cùng học và cùng làm việc với nhau trong phòng thí nghiệm. Về tài năng có thể nói được rằng :

- Ông tám lạng thì bà cũng nửa cân.

Cả hai đều biết kính nể nhau. Bằng chứng là ghế giáo sư vật lý ở trường đại học đã được dành cho  người phụ nữ đầu tiên là bà, sau khi ông mất. Lúc nhận việc, bà đã khiêm tốn nói :

- Tôi thử cố gắng dạy.

Quả nhiên, bà cũng đã thành công chẳng thua kém gì ông.

Mẫu gương thứ hai là ông bà Nixon.

Sự nghiệp của ông tổng thống nước Mỹ này phần lớn là do bà vợ. Bà luôn sát cánh với chồng qua mọi việc, ở mọi nơi và trong mọi lúc, để chia sẻ những nỗi cực nhọc thuở hàn vi, cũng như làm phụ tá đắc lực cho ông trong việc tranh cử, soạn diễn văn, thiết đãi quan khách…Bà là người đầu tiên xứng đáng để cho ông giới thiệu với các ký giả, lúc tuyên thệ nhận chức tổng thống.

Không biết những mẫu gương này có còn được những cặp vợ chồng hôm nay noi theo và bắt chước nữa hay không ?

Gã Siêu    gasieu@gmail.com
 

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Được chọn giữa loài người và cho loài người; GÍAO SĨ: Xuất phát từ gíao dân, hiện diện vì gíao dân và cậy dựa vào gíao dân, để cùng làm VINH DANH THIÊN CHÚA

*************